Đêm hôm đó trăng sáng kỳ lạ dường như muốn ép mọi vật phải phơi bày bản chất bên trong của nó.
Ánh trăng soi trên tòa thành hùng vĩ với hàng trăm chùa tháp tượng Phật khổng lồ đang lặng im trong một giấc ngủ sâu. Bóng Phật bao trùm đất nước Đại Lý vào năm Chính An Nguyên Niên, đang là thời kỳ an lạc thịnh trị, ca múa thanh bình.
Bên cạnh Hoàng thành họ Đoàn có một khuôn viên được vua ngự thí cho một người bí ẩn cách đây vài tháng. Ngôi nhà khá rộng bao quanh có năm sáu đài cao, dân chúng đồn rằng được thiết lập để bảo vệ yếu nhân đang sống trong ấy. Cổng đồng cao năm bộ sáu tấc mở đôi ra có thể cho hai xe ngựa cùng vào lọt, là nơi rất nhiều vương hầu khanh tướng Đại Lý chen chúc tới lui. Vị nào cũng tỏ vẻ lễ phép, cung kính với chủ nhân ngôi nhà, nhưng người này trước sau vẫn giữ vẻ nghiêm nghị, lạnh lùng.
Người mà họ vào ra tiếp kiến là một tráng niên độ chừng ba mươi tuổi, gương mặt khắc khổ nhiều góc cạnh. Y cao lớn hơn người, khôi ngô cường tráng, tinh lực dồi dào, mày rậm mắt sắc, vẻ mặt rất nghiêm nghị gần như khắc nghiệt. Bất luận ai ngó thấy y cũng phải e dè kính sợ. Nhưng đêm nay ánh mắt ấy đang ánh lên uất hận, y lại đang đứng giữa lằn ranh sống chết, cũng giống như mấy tháng trước đây, y đang đối mặt với kẻ thù lợi hại nhất đời.
Dưới bóng Phật giữa kinh thành Đại Lý, đang diễn ra một chiến cuộc kinh hoàng.
Đao quang kiếm ảnh loang loáng khắp nơi, người thanh niên đang phải một mình chống chọi với hai mươi cao thủ. Hai mươi người này đủ cả già trẻ gái trai, mỗi người lại sử một môn võ công khác nhau, binh khí cũng khác nhau, tựa hồ như một đám ô hợp, nhưng hóa ra trận pháp lại miên miên bất tận trước sau tương ứng. Nhất định dồn ép đối phương vào tuyệt lộ. Có thể đưa một đám cao thủ võ lâm vào một trận pháp lợi hại như vậy nhất định là thần tướng hạ phàm. Vị thần tướng ngự trên vai của bốn vị tiểu tướng khôi giáp đầy mình, bốn người lại đứng trên chiếc cổng đồng như bức tượng chống đỡ cho chủ nhân lược trận. Thần tướng mình cao năm thước, lưng lớn ba vầng, Hoàng kim giáp sáng lóa, đeo mặt nạ quái thú, ai nhìn vào cũng hồn xiêu phách lạc.
Người tráng niên bị vây vừa đỡ một kiếm chém tới, lại tung người lên nóc điện. Y đứng trên đó, trỏ vị thần tướng mà cười ha hả:
“Hay cho Địch Thanh, giỏi cho Địch Thanh, trên chiến trường không giết được trẫm, nay lại truy cùng đuổi tận, bày mưu tính kế ám sát ta đó chăng?”
Hóa ra vị thần tướng chỉ huy hai mươi cao thủ đó là Địch Thanh, đại nguyên soái Tống trào. Ông ta tay trái cầm đại đao, tương truyền của Dương Nghiệp Dương lão lệnh công Thiên Ba Phủ. Tay phải phất Liệt Hỏa Trân Châu Kỳ, là bảo vật trấn quốc của Đại Tống, có được nó có thể điều khiển trăm binh muôn tướng. Trên người lại mang ba bảo vật đã giúp ông ta thành danh trên chiến trường Tây Hạ: Chấn Thiên cung, Xuyên Vân tiễn và mặt nạ Nhân Diện Thú. Đối với kẻ địch này, Địch Thanh đã phải trang bị tất cả những thần binh lợi khí, chứng tỏ tráng niên kia là cao thủ bậc nhất đương thế và là mối nguy hại lớn nhất cho quốc vận của Đại Tống.
Địch Thanh đáp lời của người trẻ tuổi, tiếng người qua mặt nạ Nhân Diện Thú biến dạng tựa như âm hồn quỷ ảnh kêu gào đòi đền mạng:
“Đối với đứa giặc cỏ như ngươi, cần gì phải động đến đại binh của bổn soái”. Nói đoạn Địch Thanh phất Trân Châu Kỳ, một luồng kình lực chí dương chí cương phóng đến người thanh niên nọ.
Y lại tung người lên tránh né, để cho kình lực làm tan nát cả một góc điện. Người rơi xuống giữa rừng binh khí của đám cao thủ phía dưới e rằng thịt nát xương tan. Nhưng kẻ có thể tự tin một mình đương đầu với Địch Nguyên soái thật không đơn giản, y lao xuống hai tay vận kình, người chưa tiếp đất mà khí kình đã giao đến buộc đám cao thủ Trung Nguyên phải lùi xa mấy trượng.
“Đêm nay hãy để Trí Cao tiễn Địch Nguyên nhung cùng các vị hiệp sĩ Trung Thổ xuống cửu tuyền một đoạn.” Vừa dứt tiếng y đã giật ngay một chiếc chùy đang giáng xuống, xoay ngọn chùy đập nát bụng kẻ xuất chiêu. Người trúng đòn giật lùi mấy bước miệng ộc máu tươi, ngũ tạng cứt đái từ trong khoang bụng đổ ra lầy đất, mùi xú uế bốc lên nồng nặc, ai nấy thấy sức mạnh kinh thế của Trí Cao đều kinh hồn tán đởm.
Nùng Trí Cao, vốn là thủ lĩnh châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt, với Thiên Cảm Thánh Vũ Hoàng đế nước ta có mối nghi ngờ giết cha. Nhưng Thái Tông nhà Lý là minh chúa đương thế, Ngài chỉ dùng tài đối ngoại mà đủ khiến Trí Cao tâm phục khẩu phục, hiểu tường ra kẻ ám hại gia đình mình là sát thủ Tống quốc. Trí Cao hứa không quấy quá phía Nam mà hành quân lên đối đầu với Đại Tống. Chỉ trong hai năm, đã bình định được miền biên giới phía Nam nhà Tống, xưng là Nhân huệ Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, thanh thế trùm thiên hạ.
Thánh Vũ Hoàng đế lại trí trá dâng biểu sang Trung Quốc xin mang 20 vạn binh phối hợp dẹp loạn Nùng Trí Cao. Nhưng nguyên Soái Địch Thanh lo rằng họ Lý khi định được giặc Nùng không chịu giải giáp hồi hương thì sẽ gây hại hơn cho Đại Tống, bèn khuyên vua từ chối, thân lãnh 10 vạn tinh binh nam hạ diệt giặc. Phải đánh đến hai năm mới ép được Trí Cao bỏ chạy sang Đại Lý ở Vân nam. Từ đây y được sự bảo bộc của Đoàn thị, vẫn đợi ngày phong vân tái khởi.
Khi bôn ba ở hải ngoại, Nùng Trí Cao có dẫn theo một đứa trẻ độ chừng 10 tuổi mà y gọi tên là Nùng Tông Đản. Tông Đản sống trong hoàng thành Đại Lý hằng ngày hầu hạ Trí Cao và có mối giao tình thân thiết với Hoàng Thái Tôn của Đại Lý tên Đoàn Chính Minh mười sáu tuổi và Thái Tôn đệ Đoàn Chính Thuần mười hai tuổi. Ba người trẻ tuổi kết nghĩa huynh đệ trong Thiên Long tự, hẹn có phước cùng hưởng có hoạ cùng gánh.
Sớm nay Hoàng đế Đại Lý cho mở tiệc rượu, mời Trí Cao và Tông Đản cùng thưởng yến. Đến giữa cuộc tiệc hai vị Hoàng Tôn xin phép Hoàng Tổ phụ múa kiếm cho khách thưởng lãm, rất đẹp lòng Hoàng Đế.
Chính Minh múa kiếm duy chỉ có một bài, nhưng ban đầu khoan thai nhẹ nhàng, sau lại mạnh bạo gấp gáp, khiến Trí Cao thấy có đều gì kỳ lạ. Tông Đản kéo tay Trí Cao mà hỏi nhỏ:
“Hoàng thượng xem, Chính Minh cứ múa đi múa lại bài Bắc độc thủ ám kiếm, chẳng phải bất thường hay sao. Để tiểu thần ra hỏi rõ đuôi đầu.” Nói rồi tung người một vòng đáp giữa bài kiếm của hai vị Hoàng Tôn, cung tay mà tâu cùng Chính An đế:
“Thưa Hoàng Thượng, xin cho phép nhi thần múa kiếm đáp từ hai vị Hoàng Tôn điện hạ.”
Đoàn Tư Liêm cho phép, Tôn Đản múa Hoa Lâm nhập cốc của Hoa Lâm công tử người nước Đại Yên khi xưa lạc vào Thủy lạc cốc, tức cảnh đẹp hữu tình mà sáng tạo ra bài kiếm lưu truyền trong dân gian. Ý muốn mô tả sự bối rối trước những chiêu kiếm lạ lùng của hai vị Hoàng Tôn.
Đoàn Chính Thuần đáp lại bằng chiêu Ngư Trường tứ lại lư, tả chuyện Chuyên Chư hành thích Ngô Vương Liêu thời Xuân Thu. Vốn Ngô Vương Liêu lên ngôi nhưng luôn sợ hãi bị cướp ngai vàng nên ngay cả khi đi ngủ cũng mặc áo giáp sắt nhiều lớp. Quanh mình đều bố trí vệ sĩ thân tín. Tuy nhiên Ngô Vương Liêu lại rất thích ăn cá tươi. Mỗi khi ăn cá tươi đều muốn đầu bếp chế biến trước mặt mình. Chuyên Chư được Ngũ Tử Tư tin tưởng giao cho nhiệm vụ hành thích Vương Liêu. Chuyên Chư nhờ bậc thầy rèn kiếm Âu Dã Tử rèn một thanh truỷ thủ nhỏ và mỏng như lá đặt là Ngư Trường Kiếm. Mặt khác học nấu bằng được món Cá Chẹp rất ngon. Cá do Chuyên Chư làm, đưa tận miệng vẫn cảm thấy cá còn sống. Tin đến tai Ngô Vương Liêu, vương mới cho truyền Chuyên Chư nhập cung nấu ăn cho mình. Chuyên Chư giấu dao trong bụng cá. Lưỡi dao mỏng, và Chuyên Chư lại khéo léo khiến cho con cá vẫn còn sống, lại không lộ ra chút gì về con dao trong bụng. Vào đến nơi, vật dụng vương ban cho Chuyên Chư làm cá chỉ bằng tre và nứa. Chuyên Chư nhân lúc Ngô Vương Liêu không phòng thủ mới lấy lưỡi dao trong bụng cá đâm vào yết hầu ông ta. Nhất chiêu đoạt mạng. Chiêu này tàn độc thâm hiểm, Trí Cao hiểu ra có sự không hay, nhất định có người đang muốn ám hại y.
Đoàn Chính Minh xoay người lui ra năm trượng múa Ngũ Hổ trận bình Tây Liêu Quốc, ám thị Địch Thanh cùng ngũ hổ tướng Tống triều đang ở đây, muốn lấy mạng Trí Cao. Nhân huệ đế ồ lên một tiếng, biết Đại Lý Đoàn thị đã quay sang ủng hộ Địch Thanh muốn hợp sức đưa hắn vào tuyệt lộ, thì đùng đùng đứng dậy bỏ ngang cuộc tiệc.
Nhưng Trí Cao xưa nay vẫn luôn tự tin tuyệt đối vào võ học cao cường của mình, nên không hề e sợ ám toán của Địch Thanh, y cứ ở trong phòng mà đợi cao thủ Đại Tống xuất hiện. Khoảng canh ba đêm đó thì lính gác Đại Lý biến mất đột ngột, hai mươi vị cao thủ bước vào vẫn thấy Trí Cao đang ngồi yên bên bếp lửa. Uất khí xông vào rát mặt họ, Trí Cao một chiêu đã bức cao thủ Tống quốc lui ra khỏi căn nhà, y cũng theo đó mà xông ra. Chuyện từ lúc đó đến khi Trí Cao dùng chùy đập chết một người trong bọn, không quá hai trăm chiêu.
Trí Cao võ công thập ác, khi thì dùng tay không, khi lại đoạt binh khí, chiêu nào xuất ra cũng là toàn lực võ công, đỡ được một chiêu cũng khiến người ta hộc máu tươi. Du Long Tử phái Thanh Thành đâm kiếm tới, Trí Cao tay phải bắt được cổ tay y, tay trái vận kình xuất chưởng vào giữa ngực. Du Long Tử văng ra một góc, ngực nát bấy mà cánh tay đứt lìa còn đang bị Trí Cao nắm giữ. Lại chỉ trong một chớp mắt, Trí Cao cầm cánh tay đầy máu quật bể đầu Pháp Không Đại Sư. Năm bảy loại binh khí liên tục chém tới tấp chỉ càng làm vua Nùng say máu. Mộ Dung Trí phái Không Động tung người kẹp chặt Trí Cao từ phía sau. Mấy kẻ khác thừa dịp đâm chém xối xả. Cả bọn chưa kịp đắc ý, Trí Cao đã vòng tay kéo đầu Mộ Dung Trí ra phía trước, kê miệng cắn ngay cổ rứt ra một tảng thịt. Từ miệng vết thương máu tuôn thành vòi, đại sư huynh phái Không Động không thể gào rú mà chỉ còn phát ra mấy tiếng khọt khọt, hai tay bưng cổ chạy quanh vườn, được hai ba vòng thì quỵ xuống mà cơ thể không ngừng giãy giụa thảm thiết. Địch Thanh đếm được trên mình Trí Cao đã mấy chục vết thương máu me đầm đìa thì cười hi hi, liên tục phất cờ điều động cao thủ phải giết y cho bằng được.
Giao chiến thêm vài trăm hiệp nữa thì cao thủ Đại Tống còn lại tám người mà Trí Cao nguyên khí đã hao tổn rất nhiều. Hắn đứng dựa vách tường, miệng thở hồng hộc, nhìn lại khuôn viên thì thấy la liệt khắp nơi những mảnh thi thể, ngũ tạng óc phèo tung tóe. Nơi này đã trở thành một lò sát sinh thực sự. Những người còn thoi thóp thì kêu gào chửi rủa, khóc lóc thảm thiết, lê lết cầm lại những mảnh thân thể của mình mà mắng chửi Trí Cao súc vật, oán hận Địch Thanh đưa mình vào hiểm cảnh. Người thường nhìn thấy cảnh này không khỏi chêt ngất vì kinh hãi.
Tám người còn lại thương thế cũng không nhẹ, sợ mình lại xông vào tiếp thì Trí Cao như chó cùng bứt dậu điên lên mà uổng mạng. Một lão già râu bạc cầm song kích hô lên:
“Địch Nguyên Nhung, giặc Nùng bị thương nặng rồi, ông mau mau xuống lấy đầu nó đi.”
Trí Cao gầm lên:
“Đúng rồi, Địch Thanh xuống đây đấu với trẫm một phen, để trẫm xem thịt ngươi có thối như thịt mấy con chó này không?”
Địch Thanh cười ha hả, vừa xoay thân định nhảy xuống chém một nhát chẻ đôi Nùng Trí Cao thì bỗng nhiên đau nhói ở cánh tay. Nhìn lại thì thấy ba bóng đen từ ngoài vách tường khinh công lao tới đứng chắn trước mặt Trí Cao. Nhìn kỹ thì đó là hai vị Hoàng Tôn Đại Lý và Tông Đản, ba đứa con nít sao dám đọ sức với đệ nhất chiến thần đương thế. Tông Đản nhanh tay cầm theo một mảnh gấm khoác lên mình Trí Cao. Trí Cao nhìn thấy ba đứa nhỏ mà ứa nước mắt: “Ta bảo trốn đi còn dẫn xác tới đây làm gì?”
“Địch Nguyên Nhung không được giết người mà bổn cung đã thưởng thí cho cẩm bào, thấy cẩm bào như thấy mặt thánh thượng. Các người còn không mau quỳ”
Lớn tiếng ngăn cản và làm bị thương Địch Thanh vừa rồi là của Đoàn Chính Minh. Hoàng Thái Tôn từ 5 tuổi đã được phụ hoàng dạy dần khẩu quyết của Nhất Dương Chỉ, nhưng dẫu có là kỳ tài võ học thì cũng vẫn không thể là đối thủ của Địch Thanh. Xuất chỉ đánh lén chỉ đủ làm tê cánh tay Địch Thanh một lúc. Thấy cẩm bào được Hoàng đế Đại Lý ngự thí thì Địch Thanh cũng có chút phân vân, việc này hệ trọng đến sự ban giao hai nước, không thể khinh suất.
“Bổn soái đang làm nhiệm vụ, có sự thông qua của vua các người, cẩm bào ngự ban thì sao, bổn soái chỉ làm theo nguyên tắc.” Tiếng người phát qua mặt nạ Nhân diện thú vô cùng đáng sợ, ba đứa trẻ phải lùi mấy bước vào người Trí Cao không dám làm càng. Chỉ trong một chớp mắt, Địch Thanh từ trên phi xuống như chớp giật, xô ba đứa nhỏ, áp sát Trí Cao, chụp lấy cẩm bào. Trí Cao xuất quyền đỡ gạt, ĐịchThanh cứ liên tục đánh tới, chụp được cẩm bào kéo về phía mình. Trí Cao tung một cước vào tay Địch Thanh khiến hắn buông tay rồi nhẹ nhàng trùm lại cẩm bào ngay ngắn trên người.
Đoàn Chính Thuần hét lên: “Địch Thanh to gan, dám coi thường thánh uy, người đâu!” Tiếng còn chưa dứt thì Địch Thanh xông tới như điện tát vào mặt Chính Thuần sưng tấy. Rồi nhảy phốc về chỗ cũ, tay phủi phủi như chưa có chuyện gì xảy ra.
Lão móc trong người ra một miếng kim bài Đại Lý. Gầm lên: “Các người nghe đây, đây là mật chỉ của Hoàng đế các ngươi, giao cho bổn tướng toàn quyền hành động bắt Nùng Trí Cao, ai dám kháng chỉ, chém không tha” nói đoạn quay sang đám bốn người Trí Cao - “Để ta xem một chiếc cẩm bào kia bảo vệ được hết bốn cái mạng chó của các ngươi không”
Địch Thanh giơ tay ra hiệu, Tứ Hổ tướng trên cổng đồng ném xuống Đại Đao Thanh Long 500 cân. Địch Thanh đón lấy, chống đao xuống đất, thần khí bao trùm không gian, quả nhiên là thần tướng hạ phàm.
Tông Đản hoành kiếm ngang người đứng trước, Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần hai vị vương tôn vận Nhất Dương Chỉ đứng hai bên, quyết sống mái với Địch Thanh.
Nùng Trí Cao sợ chuyện ảnh hưởng đến ba đứa nhỏ bèn nói lớn: “Đa tạ lòng nhân cuả nhị vị Hoàng Tôn, nhưng việc đã đến nước này, Trí Cao thật không dám phiền đến hai vị. Chiến cuộc hôm nay trước sau gì cũng phải diễn ra. Thôi thì hãy để Trí Cao đương đầu một phen.”
Nói rồi cởi bỏ cẩm bào trả lại cho Chính Minh, ba đứa trẻ ôm nhau giàn giụa nước mắt. Nùng Trí Cao bước tới mấy bước vận công, khí kình áp đảo không gian. Khiến đám người Trung Nguyên thất kinh, không ngờ đã qua mấy canh giờ chiến đấu mà Trí Cao vẫn có thể bảo tồn nội lực kinh thế như vậy.
Địch Thanh chẳng hề nao núng, hoa đao chém tới, Trí Cao giơ tay ra đỡ dưới cán đao. Sức nặng trăm cân cộng với thần lực của Tống soái khiến Trí Cao phải khụy một gối mà gạch dưới chân cũng nứt ra hết. Đao thứ hai giơ lên thì Trí Cao trượt người ra phía sau né tránh, rồi vòng lên kéo Chấn Thiên Cung đang đeo phía sau lưng Địch Thanh. Tay vừa buông ra thì cánh cung đập mạnh vào lưng khiến Địch Thanh té nhào ra phía trước mà ộc máu tươi. Quả nhiên là thần binh lợi khí. Địch Thanh lăn người một vòng vừa đứng dậy thì tay đã phi ra một tiễn. Mũi tên xé gió lao đến, Trí Cao vận kình vào tay định rằng sẽ bắt ngay tiễn ấy. Nhưng ngờ đâu tay vừa chụp vào thì thấy ngũ tạng chấn động, tiễn đi qua không sao giữ lại được, Trí Cao nhìn lại thì thấy bàn tay trái đã bị phá nát, trơ ra xương trắng.
“Hahahaha, Xuyên Vân Tiễn là thần tiễn của tướng gia, phàm nhân như ngươi dẫu võ công đệ nhất thiên hạ e cũng phải là đối thủ”
Đám người Trung Thổ thấy Trí Cao đã mất một cánh tay thì đắc ý vô cùng. Hoa Lão đầu Trưởng Lão cái bang định nhảy vào tranh công. Nhưng chuyện không phải dễ, thân ảnh vừa đến gần, Trí Cao xoay người né chiêu, lại sẳn đà sụt cả cánh tay chỉ còn xương xẩu vào bụng lão, lôi ra cả đám ruột. Tay phải vơ ngay đám ruột mềm xèo, nhẹ nhàng đi một đường quanh cổ Hoa Lão đầu, điệu bộ như một thiếu nữ thắt chiếc nơ nhung lên cổ chú mèo cưng vậy. Xong rồi bàn tay hộ pháp xiết mạnh; đám ruột nghiến chặt, thắt sâu vô cần cổ... làm Hoa Lão đầu nhảy khựng lên như mắc câu. Nhưng giãy dụa sao nổi, lưỡi lão thè ra, mặt mày tím ngắt. Một lúc sau thì lão mềm oặt ra. Một mùi thối hoắc xông lên, bao nhiêu cứt đái trong bụng tuôn ra bằng hết. Cả bọn người Tống đông cứng không ai dám xông vào trợ giúp, đứng ngoài nhìn cái xác bị đạp văng ra mấy thước mới định thần, giục Địch Thanh mau mau ra sát chiêu.
Trí Cao đạp xác Hoa lão đầu ra rồi thì phi thân tới định một chiêu cuối cùng đoạt mạng Địch Thanh. Phía ấy đao quang chém ra muôn ngàn hình thù quái dị, Trí Cao xoay người bước trên sống đao áp sát rồi lại tung một quyền vào giữa ngực Địch Thanh. Khôi giáp trên người Địch Thanh chịu không nổi sức mạnh mà tan nát cả. Nhưng trong phút nguy cấp đó, Địch Nguyên soái không hổ là thần tướng, rút thêm một cây Xuyên Vân tiễn từ túi tên, xoay tay cắm ngập vào bụng Trí Cao, lại ngoáy ngoáy mấy cái, nhất định phải lấy mạng. Trí Cao trúng chiêu, kinh hoàng nhìn xuống bụng mình máu tuôn lênh láng.
Ba đứa trẻ nhìn thấy Nùng Trí Cao loạng choạng tay không ngừng hốt lại đám ruột đang chực đổ ra ngoài mà khiếp vía. Đám người ở ngoài thấy Trí Cao thất thế thì reo hò, hối Địch Thanh mau mau lấy đầu giặc lập công. Địch Thanh lại chẳng vội vàng gì, nhẹ nhàng bước tới, chống đao ngồi xuống, tháo mặt nạ Nhân diện thú ra cầm trên tay. Gương mặt thần tướng nhà Tống gần 50 tuổi đầy những nét chạm khắc bởi thời gian và những cuộc chiến, nghiêm trang nhìn vào ánh mắt đang cực kỳ kinh hãi của Trí Cao.
“Nói ta nghe, Bách Việt Đồ ở đâu?”
Chỉ đến lúc này, người ta mới hiểu rằng, chuyến Nam hạ của Địch Thanh không chỉ nhằm tiêu diệt dư đảng Đại Nam, mà ẩn sau đó là một âm mưu thâm độc hơn gấp bội: chiếm đoạt Bách Việt Đồ — bản đồ dẫn đến long mạch cổ xưa của các tộc Việt.
Tương truyền, thuở lập quốc, Lạc Long Quân đã sai trăm hoàng tử tản đi khắp phương Nam, lập nên trăm họ, từ đó sinh ra Bách Việt. Ngàn năm Bắc thuộc trôi qua, đất cũ của Bách Việt vốn trải dài đến cả Lưỡng Quảng, nhưng đã lần lượt mất về tay phương Bắc. Sau hiệp ước Tống – Việt, chỉ còn 207 khê động được thỏa thuận trao lại cho Đại Cồ Việt, đổi lại việc các sắc tộc Việt rút binh khỏi biên giới Tống, cam kết không xâm phạm phương Bắc.
Nhờ vậy mà triều Tống có thể quay gót đánh Tây Hạ ở phía Tây, đẩy lùi Liêu ở phương Bắc, công lao không nhỏ là từ sự yên ổn nơi phương Nam. Song, ẩn họa cũng từ đó mà nảy sinh. Trong số 207 khê động, nơi đáng sợ nhất chính là vùng đất của tộc Nùng.
Tộc Nùng vốn cần mẫn vũ dũng, lại nhất thiết sống hợp quần, nên suốt nghìn năm Bắc thuộc vẫn giữ được Việt tính. Lạc hầu Nùng Dân Phú quy tập tất cả các động chủ, lạc hầu, châu trưởng, mỗi năm đều về cống nạp cho Đại Cồ Việt ta, nên được gia phong đến chức Thái Bảo. Truyền đến đời cha của Trí Cao là Nùng Tồn Phúc, văn võ song toàn, khiến tất cả các sắc dân Bách Việt đều hướng đầu quy phục. Nên Lý Thái Tông lập ra nước Trường Sinh và trao cho cha truyền con nối. Suốt bao nhiêu năm, khắp Trường Sinh quốc mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng liên tiếp. Trường Sinh hầu cùng các quan triều đình Trường sinh biết chăm lo chăn nuôi, chăm trẻ giúp già, đức trãi thiên hạ. Thái Tông hoàng đế nhiều lần xuống chiếu khen ngợi. Được như vậy là nhờ họ Nùng truyền đời cất giữ Bách Việt Đồ, là một địa đồ chỉ chỗ long mạch của toàn bộ đất Lưỡng Quảng và Đại Cồ Việt. Chỉ cần nhà Tống nắm được Bách Việt Đồ, chẳng những 207 khê động bị diệt, mà Đại Cồ Việt đương hồi thịnh thế cũng gặp buổi nguy nan.
Trí Cao cười hê hê không đáp, móc trong người ra một túi gấm, Địch Thanh toan giơ tay ra bắt lấy thì Trí Cao rụt tay lại, tung túi gấm lên không. Địch Thanh hoảng hồn liền phi lên theo quyết lấy bằng được Bách Việt Đồ. Thấy đối phương hành động trúng ý mình, Trí Cao cắn răng rút Xuyên Vân tiễn từ trong bụng ra, máu tuôn xối xả. Hắn vận hết sức bình sinh phi tiễn vào Địch Thanh: “Con mẹ mày, ăn cứt của tao đi.”
Địch Thanh đang chuyên tâm làm sao tóm được bảo vật, bất thần nghe tiếng gió xé, vội vã xoay người dùng răng cắn chặt ám tiễn, nào ngờ đó là thần binh Xuyên Vân tiễn. Chỉ nghe tiếng nổ động trời, Địch Thanh từ trên không nhào xuống đất như sung rụng, mặt bốc khói đen, đau đớn vô cùng. Thấy nguyên soái bị trúng tiễn, bốn vị tướng phi người ra đỡ lấy rồi nhẹ nhàng tiếp đất trong khi Địch Thanh co giật không yên. Trong lúc đó, đám tám người Trung Nguyên cũng đã từng nghe đến bảo vật trấn quốc Nam triều, nên đã nổi lòng tham, vừa thấy Địch Thanh trúng tiễn liền phi lên không mà chém giết nhau để đoạt bản đồ. Ba đứa trẻ nhìn thấy cảnh bi hài này không khỏi xót xa chua chát.
Cuộc đấu diễn ra trong chừng thời gian uống một tuần trà, nhìn thấy cảnh trên không mà con người ta giành giật chém giết nhau xác rơi lả tả ai cũng phải lắc đầu lè lưỡi. Cuối cùng, Bang chủ Phát Lạc Bang là Liễu Thanh Sa đã đoạt được túi gấm chứa Bách Việt Đồ, y hể hả đáp xuống đống xác bấy nhầy của đồng bọn. Chưa kịp reo lên một tiếng thì bất giác có luồng khí kình lao tới. Trong một sát na, Liễu Thanh Sa đã nát thây mà chung cuộc vẫn không hiểu sao mình chết.
Ai nấy thất kinh hồn vía, chỉ một chưởng mà có thể khiến người đang đứng kia tan xương nát thịt thì võ công thật không phải tầm thường. Toàn trường hướng mắt về phía luồng khí kình đánh tới, chỉ thấy một bóng người dong dỏng cao. Người này bước ra từ một góc non bộ, nhẹ nhàng đi đến, lượm túi gấm từ dưới đất, giũ giũ máu dính trên đó rồi cho vào tay áo. Y đến tự lúc nào không ai biết, kể cả bốn vị trong Ngũ Hổ Tướng đứng canh trên cổng đồng từ đầu cũng không biết.
Đó là một thư sinh nho nhã, khoảng chừng bốn mươi tuổi, với bộ mặt sắc xảo nhưng tái xanh, hay cười nhưng không thành tiếng và thường dùng những ngón tay có bộ móng dài được chăm chút đưa lên che nụ cười như muốn giữ lại một chút cho riêng mình. Mái tóc dài được chải chuốt hoàn hảo cắm một chiếc trâm bằng ngọc thỉnh thoảng được vuốt lên để giữ cho nó luôn được bồng bềnh như làn mây sau mỗi cơn gió thoảng. Trên tay y cầm chiếc Thiết phiến nhẹ nhàng phe phẩy đuổi đi cái nóng oi bức của đêm hè miền Vân Nam. Tôn Đản nhìn thấy người này thì reo lên:
“Là Ngô sư thúc, chúng ta được cứu rồi.”
Người thư sinh cung tay chào Địch Thanh:
“Tiểu tướng Lý Thường Kiệt xin ra mắt Địch Nguyên Soái. Ngưỡng mộ oai danh của Nguyên soái đã lâu, giờ tận mắt được chiêm ngưỡng võ công vô địch thật không uổng kiếp làm người.”
Lúc này đám người Trí Cao mới quay sang nhìn rõ Địch Thanh, Thần binh Xuyên Vân Tiễn đã phá nát gương mặt của nguyên soái nhà Tống. Gương mặt khôi ngô tuấn tú ban nãy giờ đây chỉ còn lại nguyên vẹn từ cánh mũi trở lên, còn phía dưới thì trơ ra bộ răng trắng hếu đã gãy bể và hai lỗ mũi sâu hoắm, nhìn còn đáng sợ hơn cả mặt nạ Nhân diện thú lúc trước ông ta đeo. Vì miệng bị thương nên nước dãi hòa với máu tươi cứ ứa ra ròng ròng, khiến ông ta một chốc phải giơ tay chùi cằm.
“Ngươi là tướng Đại Cồ Việt?” Tiếng người phát ra như nghẹt lại trong cuống họng.
“Thưa phải, tiểu tướng được lịnh đến đây là để áp giải Trí Cao về nước và thâu hồi lại Bách Việt Đồ của bản quốc.” Đoạn quay sang Trí Cao mà ân cần. “Trí Cao, đệ lại đi ra ngoài quậy phá rồi, ta phải đưa đệ về để Hoàng Thượng trị tội.”
Trí Cao cười hắc hắc vì máu cứ liên tục trào ra từ miệng. “Tiểu đệ biết tội, sư huynh mau mau đưa đệ về gặp Hoàng thượng, nếu không bụng vỡ ra thì không kịp đâu.”
Ba đứa trẻ đỡ lấy Nùng Trí Cao toan bỏ đi, Địch Thanh gầm lên: “Đâu có dễ như vậy... Nùng Trí Cao là tội đồ Tống Quốc, mau giao về Khai Phong xét xử.”
Lý Thường Kiệt đáp nhẹ: “Nguyên soái chắc có điều nhầm lẫn, trước đây tiểu đệ của tôi từng có lần cầu làm phiên thuộc nhà Tống, chẳng phải chính nguyên soái tâu lên chúa Tống bảo không nên đó chăng. Sao lại coi Trí Cao là tội đồ Tống Quốc cho được. Lại nói chuyện binh đao giữa Tống trào và Đại Nam là chuyện giao tranh hai nước, được mất bởi tài ba thao lược của chủ tướng đôi bên. Nguyên soái đã chiến thắng rồi thì thôi, sao lại đem người ta đi xét xử.”
“Đại Cồ Việt các ngươi trước sau bất nhất, giờ lại cho người đi giúp tên mọi Trí Cao làm phản, giết người cướp của. Đạo lý ở chỗ nào?”
“Từ hôm sư đệ tiến lên Bắc báo phụ thù, đem quân nhân nghĩa. Y nghiêm cấm quân sĩ, dù một con gà, dù một ngọn cỏ, dù một lá rau cũng chưa phạm đến. Đi đến đâu, lại tha thuế cho dân, tổ chức cai trị theo nhân nghĩa của Khổng, từ bi hỷ xả của Phật. Đến Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang cũng không bằng, thế mà bảo rằng giết người, cướp của ư?”
Địch Thanh cho rằng con người này thật mồm mép giảo hoạt, dùng lý lẽ với hắn e không thể thắng được, nhiệm vụ cấp bách bây giờ là làm sao giết được Nùng Trí Cao và đoạt Bách Việt đồ, nên động thủ là kế tốt nhất. Dù sao ông cũng tự tin vào sức mạnh của Ngũ Hổ Tướng, trong khi Nùng Trí Cao đang bị thương nặng, Lý Thường Kiệt cùng đám trẻ chẳng qua chỉ là những kẻ thư sinh yếu đuối, giết người đoạt bảo bây giờ là tốt nhất.
“Đừng nhiều lời, hôm nay các ngươi phải vong mạng tại đây.” Nói rồi Ngũ hổ tướng cùng xông đến quyết giết bằng được đám người Lý Thường Kiệt
Địch Thanh, Trương Trung, hai người đấu với Lý Thường Kiệt. Lưu Khánh, Thạch Ngọc, Tiêu Đình Quý vây lấy Trí Cao cùng lũ trẻ. Giữa đêm trăng sáng, lần đầu tiên Lý Thường Kiệt giao đấu với đệ nhất cao thủ Trung Thổ, đã ba trăm hiệp mà vẫn bất phân thắng bại. Địch Thanh và Trương Trung thấy nội công họ Lý thật kỳ lạ khác thường, âm dương lúc mạnh lúc yếu tùy nghi thi triển, những người làm được điều này trên đời thật có một không hai. Còn phía Trí Cao đang trọng thương ở bụng, đau đớn tột cùng không thể đánh được, chỉ nhờ vào sự bảo vệ của ba đứa trẻ. Chính Thuần, Chính Minh liên tục đề khí xuất Luc mạch thần kiếm nhất định không cho tướng Tống lại gần, Tông Đản đứng trong hoa kiếm liên miên, hễ ai áp sát là phải bị trầy da sứt mẻ. Ba tướng giao đấu đều thầm khen ngợi những đứa trẻ này quả là kỳ tài võ học, nếu qua khỏi đêm này nhất định sau này sẽ có ngày thành danh trên giang hồ.
Địch Thanh một tay cầm đại đao, một tay cầm Trân Châu Kỳ tiếp tục ra lệnh cho chúng tướng trổ thần oai. Vừa phải đối đầu đại địch, lại có thể chuyên tâm điều động các tướng lập trận, thiên hạ e chỉ có mình Địch Thanh làm được. Lý Thường Kiệt trong lòng thầm ngưỡng mộ, nhưng nhớ ra nhiệm vụ phải thi hành, liền xuất ra một chưởng đánh vào tay trái cầm Trân Châu kỳ của họ Địch khiến ông ta đánh rơi bửu vật. Thường Kiệt xoay quạt như cơn lốc bức lui hai vị Tống tướng rồi thâu Trân Châu Kỳ vào tay. Giơ lên cho mọi người thấy rõ, cuộc chiến lập tức dừng ngay vì các tướng Tống không ai dám hành động khinh suất sợ tổn hại đến bảo vật quốc gia.
“Địch Nguyên Soái, Trân Châu kỳ đã nằm trong tay tiểu tướng, nguyên soái nên cho chúng tôi đi để bảo toàn vật ấy, nhược bằng không, tôi đành phải hủy nó tại nơi này. Bất quá chúng tôi chết rồi thì năm vị hồi trào cũng sẽ theo luôn. Chúng ta hẹn gặp nhau dưới suối vàng.”
“Ha, khá khen cho Lý Thường Kiệt, võ công quái đảng lại có trí tuệ dị thường, muốn ép bổn soái lui ra cho các ngươi thoát nạn hả? Ha, Ai không phải một lần chết, vậy đánh cho sướng một trận đi, lấy được đầu của các ngươi ta chết cũng nhắm mắt.”
Lý Thường Kiệt giơ tay lên phát công định hủy Trân Châu Kỳ, Ngũ hổ tướng vừa mạnh miệng nhưng thấy vậy thảy đều bước lên một bước. Thường Kiệt thấy vậy, dùng Thiết Phiến che miệng cười hi hi rồi nói:
“Tôi biết các vị không đành lòng đâu đó mà. Vả lại tôi đã cho người gửi mật hàm sang cho Thái sư Bàng Hồng và bọn Tôn Tú của quý quốc, hễ Trân Châu Kỳ mà có mệnh hệ gì thì đám người Bao Chửng, Khấu Chuẩn cũng chẳng thể giúp gia tộc các người được yên lành đâu.”
Địch Thanh vô cùng tức giận, lấy tay chùi nước dãi trên cằm, rồi nói: “Để lại Trân Châu kỳ, ta sẽ nhắm mắt cho các ngươi đi trong một canh giờ, sau đó đừng trách ta truy đuổi sát sao. Nhắn nhủ vua nhà ngươi, chuyện tên mọi Nùng Trí Cao giải quyết sao cho phải, thần binh của bổn soái còn nằm trên biên giới Tống - Việt, chỉ một cái phát tay là kéo xuống san bằng nước ngươi đó.”
“Ôi chao. Thường Kiệt đa tạ Nguyên nhung thấu tình đạt lý. Thôi. Trời sắp sáng chúng tôi phải kíp đi cho kịp. Trân Châu Kỳ tiểu tướng xin trả lại Nguyên nhung.”
Những tia nắng đầu tiên bắt đầu chiếu rọi lên đống xác chết dưới chân thành Đại Lý. Trong bình minh ánh máu loang loáng khiến cho khung cảnh thê lương trở nên một vẻ đẹp kinh hoàng.
Ngũ Hổ Tướng khôi giáp lấp lánh đứng im như tượng đá, bóng Phật vừa đổ tới chân thì cả năm người phóng mình như điện xẹt, theo vệt máu của đám người Trí Cao để lại quyết lấy cho bằng được đầu giặc mới hả cơn tức giận.
Được chừng hai mươi dặm thì Ngũ Hổ tướng nghe đâu trong bụi có tiếng khóc lóc thảm thiết. Tiêu Đình Quý vốn tướng tiên phong, liền phi thân lên trước xem có chuyện gì. Thì ra là huynh đệ Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần đang ôm nhau mà khóc, dưới chân là một cái bọc bê bết máu. Tiêu Đình Quý đang bối rối không biết xử trí làm sao thì Tứ tướng cũng vừa đến nơi. Địch Thanh khuôn mặt biến dạng ghê gớm nhưng vẫn bước tới ân cần: “Mấy người kia đâu, sao lại để các người ở đây?”
“Đang chạy giữa chừng, Thường Kiệt sư bá dừng lại móc túi gấm ra xem rồi vất xuống đất, xong xé áo Tông Đản. Ngắm nhìn hình xăm trên lưng đệ ấy. Lại quay sang nhìn Nùng sư thúc với vẻ mặt rất đáng sợ. Kêu là túi gấm kia có cho chó cũng không cần. Nùng sư thúc phân trần chuyện gì đó rồi kêu chúng tôi ngủ một lát. Tỉnh dậy thì thấy Thường Kiệt sư bá dẫn Tông Đản đi rồi, gửi lại cho các ông cái này” Chính Thuần chỉ vào chiếc túi.
Lưu Khánh mở bọc ra thì kinh hồn tán đởm, thấy ánh mắt của Nùng Trí Cao nhìn mình như muốn ăn tươi nuốt sống. Trong đó có mảnh giấy đề mấy chữ: “Quà ra mắt tiểu tướng dâng lên Địch Nguyên Soái, nếu có duyên sau này ắt gặp lại.”
Chuyện trong mấy canh giờ đó sẽ trở thành thiên thu bí mật không ai có thể biết được. Thực ra đã xảy ra chuyện gì, tại sao Lý Thường Kiệt lại dâng đầu sư đệ cuả mình? Tại sao Nùng Trí Cao danh vang bốn cõi lại có thể cam tâm chết như vậy? Phải chăng y đã hoàn thành một nhiệm vụ mà quốc gia giao phó nên mới có thể ngậm cười nơi chín suối?
Mối nghi hoặc của Địch Thanh đến chết vẫn không được minh bạch, bởi vì mấy năm sau ông ta bị bãi chức tể tướng đưa về an trí ở Trần Châu. Ở đó Địch Nguyên Soái mắc chứng bệnh sợ hãi suốt ngày, đến mất ăn mất ngủ, chỉ vì khi vừa nhắm thì lại thấy Trí Cao xuất hiện đòi moi ruột ăn gan. Chưa đến nữa năm thì phát bệnh mà chết, hưởng dương 49 năm. Tống sử chép rằng: “Tháng hai năm mới, ung thư phát ra đằng mồm mà chết”.
Lại nói chuyện Lý Thường Kiệt sau khi trở về từ Đại Lý, theo phò Thánh Tông bình Chiêm lập công đầu, ủng hộ Nguyên phi Ỷ lan nhiếp chính, trở thành trọng thần của triều đình. Chừng hai mươi năm sau ngày biến cố tại Đại Lý, Lý Thường Kiệt mở cuộc tấn công Đại Tống theo đúng như con đường mà Nùng Trí Cao đã thực hiện, vẫn đạt chiến thắng giòn giã như thưở trước. Thiên hạ đồn rằng, trước khi chết, Trí Cao đã giao lại cho Thường Kiệt bí cắp kỳ môn độn giáp, hay Thường Kiệt đã khám phá ra sức mạnh bí mật của Bách Việt Đồ trở thành thiên hạ vô song? Thực sự không ai biết. Không ai biết.
1 Bình luận