NỮ NHÂN ĐẠI VIỆT: KIM HOA NỮ HỌC SĨ NGÔ CHI LAN: NỮ THI SĨ ĐẦU TIÊN

Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích

Cả hai vợ chồng Ngô Chi Lan đều được vua Lê Thánh Tông phong là học sĩ tài năng, đôi lứa xứng đôi, phu thê hoà ái. Trong những tháng ngày bà vào cung nhận trọng trách vua giao, phải sống xa gia đình, nhờ có ông cảm thông, ủng hộ nên Đại Việt ở thế kỷ 15 mới có nhà thơ nữ đầu tiên đã đóng góp lớn cho sự phát triển của thơ ca, đem vào tao đàn những vần thơ “muôn tía nghìn hồng” đậm thiên tính nữ.

25. NNDV Ngo Chi Lan.jpg

Ngoài con trai út Nguyễn Anh Vũ, Ức Trai tiên sinh còn có một người con nữa cũng may mắn sống sót sau vụ án oan thiên cổ Lệ Chi Viên. Đó là cô con gái nuôi của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ- Ngô Chi Lan, được ông bà đặt tên là Nguyễn Hạ Huệ. Tuy chỉ là người con được Lễ nghi học sĩ nhận nuôi, song Ngô Chi Lan đã kế thừa xuất sắc tài năng, trí tuệ, phẩm hạnh và tiếp nối hoài bão của vị nữ nhà giáo đầu tiên. Dưới triều vua Lê Thánh Tông, bà được vua cho vời vào cung đảm đương việc dạy lễ nghi văn chương cho các cung nhân, vua ban hiệu là Kim Hoa Nữ học sĩ còn gọi là Phù Gia Nữ học sĩ (bởi bà làm dâu nhà họ Phù) và cho dự nhiều cuộc xướng họa thơ văn. Là nữ nhân, Ngô Chi Lan không được ghi danh vào thành viên chính thức của "Tao Đàn nhị thập bát tú" (hội thơ Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông sáng lập) song các bậc tao nhân mặc khách đương thời đều vô cùng kính nể biệt tài sáng tác thi ca của bà.

Thưở thiếu thời bôn ba sóng gió, ngày trưởng thành kết mối lương duyên

Theo gia phả Ngô tộc, Ngô Chi Lan sinh năm 1434, tự Quỳnh Hương, là con gái của Thanh Quốc công Ngô Khế - một trong những người anh trai của Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao. Xét về vai vế bà là chị họ bên ngoại của vua Lê Thánh Tông. Không rõ từ năm nào, bà được Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và chồng là Nguyễn Trãi nhận nuôi, đem về Nguyễn phủ. Bấy giờ Hành khiển Nguyễn Trãi có năm bà vợ và nhiều con trai, nhưng người thiếp thứ ba là Nguyễn Thị Lộ lại hiếm muộn không sinh được người con nào. Có lẽ khi đã luống tuổi bà Lộ quyết định nhận con nuôi những mong trong nhà có tiếng trẻ thơ nói cười. Theo gia phả Ngô tộc, Ngô Khế rất đông con, ông có ít nhất 11 người con trai và 3 người con gái. Người viết trộm nghĩ, chắc là bởi mối quen biết thân tình giữa hai nhà Ngô- Nguyễn hoặc cũng có thể Ngô Chi Lan là con của người thiếp và không may sớm mất mẹ nên cô bé được bà Nguyễn Thị Lộ nhận làm con nuôi. Sống cùng người mẹ tài năng nổi bật, khí chất hơn người được vua Lê Thái Tông phong làm nữ quan dạy dỗ cung nhân, chắc hẳn cô gái nhỏ Nguyễn Hạ Huệ sớm được nhận sự giáo dục bài bản và cấp tiến hơn hẳn các tiểu thư đương thời. Sau này Kim Hoa nữ sĩ cũng có chí hướng giống như mẹ nuôi, tuy là nữ giới nhưng bà chẳng an phận trong nhà mà sẵn sàng bước ra xã hội, thoả sức phô diễn tài năng của mình.

Năm 1442 xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, cha mẹ nuôi của bà và ba đời gia tộc họ Nguyễn bị xử tử, để tránh liên luỵ tới Ngô Chi Lan, Ngô gia đã sắp xếp đưa bà trốn đi, cải dạng đổi lại tên thật và lánh nạn suốt một thời gian dài. Có lẽ cũng bởi bà vốn là con cháu Ngô gia nhiều đời trung với vua Lê nên mới thoát được kiếp nạn này.

Tới khi trưởng thành, Ngô Chi Lan kết duyên cùng Phù Thúc Hoành người làng Phù Xá ở vùng Phù Lỗ, trấn Kinh Bắc (nay là vùng Đông Anh, Hà Nội). Chồng bà tuy không đỗ đạt nhưng có tài văn chương, học vấn uyên bác. Về sau ông được vua Lê Thánh Tông cử làm Giáo thụ (thầy dạy) chuyên giảng Kinh Dịch ở trường Quốc Tử Giám, rồi chuyển sang Viện Hàn lâm, thụ chức Đông các Đại học sĩ. Như vậy cả hai vợ chồng bà đều là học sĩ tài năng, đôi lứa xứng đôi, phu thê hoà ái. Trong những tháng ngày bà vào cung nhận trọng trách vua giao, phải sống xa gia đình, nhờ có ông cảm thông, ủng hộ nên Đại Việt ở thế kỷ 15 mới có nhà thơ nữ đầu tiên đã đóng góp lớn cho sự phát triển của thơ ca, đem vào tao đàn những vần thơ “muôn tía nghìn hồng” đậm thiên tính nữ.

Kim Hoa nữ sĩ xuất khẩu thành thơ

Ngô Chi Lan nổi tiếng đẹp người, đẹp nết, giỏi thi ca, thông hiểu âm nhạc và viết chữ đẹp. Vốn là họ hàng gần với ông vua yêu thơ Lê Thánh Tông, mẹ của vua - Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao còn là người “tuổi tác càng nhiều tinh thần càng mạnh, tính vốn hiếu học lại biết làm thơ, thường đem thư truyện dạy dỗ con cháunên bà được vua trọng dụng ban hiệu Kim Hoa nữ học sĩ, được tham dự hầu hết các cuộc xướng họa thơ văn.  Vợ chồng bà kết giao với nhiều bạn thơ ở chốn kinh kỳ và thường tổ chức những buổi gặp gỡ bình luận văn chương. Bởi thế mà danh tiếng của bà ngày càng vang xa và có phần vượt hơn cả chồng.

Tương truyền, mỗi khi Thánh Tông hoàng đế có buổi đi du ngoạn, hoặc dự yến tiệc ở bất cứ nơi đâu, Kim Hoa Nữ học sĩ Ngô Chi Lan đều phải mang nghiên bút theo chầu. Vì có biệt tài sáng tác rất nhanh, nên khi xuất khẩu, lúc phóng bút, ít khi bà phải sửa chữa, dù chỉ là một chữ. Là phụ nữ, lại không phải thành viên Tao đàn Nhị thập bát tú, nhưng vì thơ văn nức tiếng nên bà không chỉ được vua ưa chuộng mà các thành viên tao đàn đều kính nể, yêu mến. Bà sáng tác nhiều tác phẩm cả bằng chữ Nôm và chữ Hán đem làm thành tập thơ Mai trang tập nhưng về sau đã thất truyền, đến nay chỉ còn lại hơn chục bài thơ được in rải rác ở các sách Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái, Kiến văn tiểu lục và Trích diễm thi tập. Trong số đó có bài thơ chữ Hán đề núi Vệ Linh (núi Sóc) được sáng tác trong lần bà tháp tùng Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao du ngoạn núi tới nay vẫn được lưu giữ trong đền Thánh Gióng: Đề Vệ Linh sơn

Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn, Vạn tử thiên hồng diễm thế gian. Thiết mã tại thiên, danh tại sử, Anh hùng lẫm lẫm mãn giang san.

Dịch thơ: Đề núi Vệ Linh

Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn Muôn tía nghìn hồng đẹp thế gian. Ngựa sắt lên trời, tên lưu sử Anh hùng mãi mãi với giang san.

Bài thơ ra đời, ngay lập tức lan truyền khắp trong cung và cả ngoài phố thị, ai cũng tấm tắc ngợi ca là xếp vào hạng tuyệt tác. Tương truyền, vua Lê Thánh Tông cũng ngỏ lời khen bà và ban tặng một cặp áo gấm màu lục, ngoài có phủ áo sa mỏng màu thiên thanh. 

Nữ nhân có sắc có tài lại thường vướng phải thị phi

Thói thường người có tài vẫn hay bị lắm kẻ ganh ghét đố kị. Người quân tử khó tránh khỏi thị phi mà bậc tài nữ được bề trên tín nhiệm lại càng dễ trở thành đối tượng những kẻ tiểu nhân đặt điều, châm chọc.  Kim Hoa nữ học sĩ có sắc có tài lại hay vào được vào cung theo hầu Hoàng đế nên bị đồn thổi, đặt điều nghi ngờ bà có mối quan hệ bất chính với vua nhằm hạ bệ, vấy bẩn thanh danh của bà. Điều đó đã làm cho bà vô cùng buồn rầu, song không vì thế mà nản lòng thoái chí. Ngô Chi Lan vẫn vững vàng, kiên định với sự nghiệp thi ca và dùng tài năng bằng phẩm giá của mình để đối diện với lời đồn thế tục.

Trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục, chương 19- Kim Hoa thi thoại ký, danh sĩ Nguyễn Dữ đã sử dụng thể loại văn học hư cấu để bày tỏ sự cảm thông với bà bằng cách để cho nhân vật của Ngô Chi Lan thổ lộ tâm tư: "Bấy nay tôi chầu hầu Thuận đế (tức vua Lê Thánh Tông), thi phụng tôn vương. Nghĩa cả là vua tôi, song vẫn còn tình thâm đồng tộc, lại vốn Ngô gia phép tắc,  Phù gia trọng đạo. Thế mà lẽ nào trong giới thi văn lại có hạng đơn bạc, đặt giọng quàng xiên, tệ hại cho đành?".  Đoạn rồi tác giả lại để nhân vật Tiến sĩ Thái Thuận lên tiếng khuyên giải: “Nào phải một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác…, mà các bậc trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân Hà dễ gì khuấy cho nhơ, nên Nữ học sĩ cũng chẳng cần bận tâm làm gì".

“Xuân”, “Hạ”,  “Thu”,  “Đông” một lòng thuỷ chung với chồng

Tương truyền, chuyện đồn thổi thị phi về mối tâm giao giữa Kim Hoa Nữ học sĩ và vua Lê Thánh Tông cũng đã gây phiền hà cho chồng bà là Giáo thụ Phù Thúc Hoành. Có lần ông gửi thư cho bà với bài thơ có tiêu đề “Ý xưa” ẩn chứa nỗi niềm nhớ mong và cả có chút ghen tuông xa gần trong đó: Hà diệp lục như cái Hà hoa hồng tử nhan. Trướng quân vị đắc kiến Trì thương không bàn hoàn.

Dịch thơ:

Lá sen xanh như chiếc tán Hoa sen hồng tựa má đào. Nhớ người mà chưa được gặp Ngẩn ngơ thơ thẩn bên ao.

Nhận được thơ của chồng, Ngô Chi Lan hiểu ngay tâm tình gửi gắm, bà làm liền bốn bài từ  “Xuân”; “Hạ”; “Thu”; “Đông” để hồi đáp nỗi niềm nhớ mong phu quân. Trong đó bài “Hạ từ” (Mùa hạ) được cho là hay nhất:

Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến Giai nhân nhàn đủ thu thiên viện. Thương xuân bối lập nhất hoàng oanh, Tích cảnh ai đề song tử yến. Đình châm vô ngữ thuý my đê, Quyện ỷ sa song mộng dục mê. Khước quái uyển liêm nhân hoàn khởi, Hương hồn chung bất đáo Liêu Tây.

Dịch thơ:

Gió rụng hoa lựu tơi bời Trên đầu tha thướt dáng người giai nhân. Oanh vàng ủ rũ thương xuân Én đôi tiếc cảnh tần ngần trên cây. Dừng kim rủ thấp đôi mày Nương song hồn mộng xa bay cuối trời. Cuối rèm ai cứ gọi hoài Cho hồn chẳng tới cõi ngoài Liêu Tây.

Qua những bài thơ, ta càng thấy vợ chồng hai vị học sĩ Phù gia không chỉ nặng nghĩa phu thê mà còn trọn tình tri âm tri kỷ, đôi bên thấu hiểu cả hai đồng lòng.

Về tác phẩm của Ngô Chi Lan, các học giả đời sau đánh giá thơ của bà mang bản sắc riêng, không khuôn sáo, gò ép, đẹp ý đẹp lời, thường kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp cảnh vật với những chi tiết chân thực của đời sống và có cái nhìn nhân ái trước cuộc đời, với con người. Các bài thơ thường hàm chứa cả ý và tình, mang nét đằm thắm, dịu dàng, duyên dáng của một nữ thi sĩ. Tài năng, phong thái và sự nghiệp của Kim Hoa Nữ học sĩ đã truyền lửa cho các thế hệ nhà thơ nữ tiếp theo và trở thành nguồn cảm hứng sáng tác, sưu tầm của các vị danh sĩ, học giả.

Dân gian lưu truyền cuối đời Ngô Chi Lan về hưu trí và mất ở làng Phù Lỗ - quê hương Phù Thúc Hoành chồng bà. Sau khi bà mất, để tỏ lòng tiếc thương và ngưỡng mộ Kim Hoa Nữ học sĩ- nhà thơ nữ đầu tiên được ghi danh trong lịch sử, nhân dân Phù Lỗ đã dựng đền thờ ngay trên nền nhà ở ngày xưa của gia đình bà (nay thuộc thôn Đoài, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn) dân gian gọi là "Miếu Nhà Bà". Mộ Nữ học sĩ đặt ở cánh bãi Tây Nguyên, bên kia sông Cà Lồ, cách Miếu Nhà Bà khoảng một cây số, thuộc xóm Tiên, xã Nguyên Khê, Đông Anh, Hà Nội. Trước đây khu này thuộc địa phận làng Phù Lỗ, nhưng về sau phân định lại địa giới hành chính, lấy sông Cà Lồ làm mốc giới, bên này sông là Sóc Sơn, bên kia sông là Đông Anh cho nên khu mộ nay thuộc Đông Anh. Cạnh mộ bà, người dân cũng dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Trải qua năm tháng, ngôi miếu nhiều lần được sửa sang tu bổ, thường xuyên hương khói phụng thờ. Người địa phương lấy ngày 17 tháng 9 âm lịch làm ngày giỗ Nữ học sĩ Ngô Chi Lan. Hàng năm, đến dịp này nhân dân trong vùng lại tổ chức lễ giỗ Kim Hoa nữ sĩ trang trọng, thu hút nhiều du khách thập phương về tham dự.

Nguồn tư liệu & Ảnh: Wikipedia, Internet, gia phả họ Ngô Việt Nam (website ngotoc.vn)  

Đọc thêm:

Nữ nhân Đại Việt Nữ thi sĩ Ngô Chi Lan Kim Hoa Nữ học sĩ
Còn lại: 5