NỮ NHÂN ĐẠI VIỆT: LỄ NGHI HỌC SĨ NGUYỄN THỊ LỘ: ÁN OAN THIÊN CỔ

Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích

Khi nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam, nếu có một thống kê về các vụ án oan rúng động lịch sử thì chắc hẳn vụ án Lệ Chi Viên đứng đầu danh sách. Theo sử chép, ngày 4 tháng 8 âm lịch năm 1442, đương trong chuyến đi tuần miền Đông, vua Lê Thái Tông đột ngột băng hà tại vườn vải xã Đại Lai ven sông Thiên Đức (sông Đuống) ở hương của Nguyễn Trãi. Triều đình nhanh chóng kết tội Nguyễn Thị Lộ người thiếp của Hành khiển Nguyễn Trãi theo hầu xa giá là kẻ giết vua và thi hành án tru di tam tộc cả đại gia đình nhà Nguyễn Trãi. Phải tới 22 năm sau đó, “năm 1464 vua Lê Thánh Tông xuống chiếu đại xá cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan” nhưng vua cũng không hề nhắc tới người bị kết án trực tiếp là bà Nguyễn Thị Lộ. Cuộc đời Nữ học sĩ đầu tiên của Đại Việt khép lại bởi án oan thiên cổ cho tới tận ngày nay, sau gần sáu trăm năm vẫn chưa được sáng tỏ.  

24. NNDV Nguyen Thi Lo.jpg

Khi nhìn lại các triều đại phong kiến Việt Nam, nếu có một thống kê về các vụ án oan rúng động lịch sử thì chắc hẳn vụ án Lệ Chi Viên đứng đầu danh sách. Theo sử chép, ngày 4 tháng 8 âm lịch năm 1442, đương trong chuyến đi tuần miền Đông, vua Lê Thái Tông đột ngột băng hà tại vườn vải xã Đại Lai ven sông Thiên Đức (sông Đuống) ở hương của Nguyễn Trãi. Triều đình nhanh chóng kết tội Nguyễn Thị Lộ người thiếp của Hành khiển Nguyễn Trãi theo hầu xa giá là kẻ giết vua và thi hành án tru di tam tộc cả đại gia đình nhà Nguyễn Trãi. Phải tới 22 năm sau đó, “năm 1464 vua Lê Thánh Tông xuống chiếu đại xá cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan” nhưng vua cũng không hề nhắc tới người bị kết án trực tiếp là bà Nguyễn Thị Lộ. Cuộc đời Nữ học sĩ đầu tiên của Đại Việt khép lại bởi án oan thiên cổ cho tới tận ngày nay, sau gần sáu trăm năm vẫn chưa được sáng tỏ.

Chuyện tình cô bán chiếu gon

Theo một số tư liệu ít ỏi thì bà Nguyễn Thị Lộ là người làng Hải Hồ (sau đổi là làng Hải Triều, tục gọi làng Hới), tổng Thanh Triều, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình cũ). Cha bà là Nguyễn Mỗ, làm nghề thầy thuốc. Nhờ tư chất thông minh, lại được cha cho đi học, nên bà sớm thông hiểu các kinh sách, biết làm thơ  và còn nổi tiếng là một người xinh đẹp. Về năm sinh của bà, có lẽ là bà sinh vào khoảng năm 1390 tới 1400.

Trong một lần lên kinh thành Thăng Long bán chiếu (làng Hới có nghề dệt chiếu nổi tiếng), Nguyễn Thị Lộ đã gặp gỡ Nguyễn Trãi, rồi trở thành thiếp của ông. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú chép: “Ông (Nguyễn Trãi) lúc trẻ đi đường gặp nàng ở Vũ Lăng, yêu về tài sắc mới lấy làm vợ”. Còn ở phần Ức Trai tập dẫn Nhị Khê Nguyễn tộc phả nói: “Thời họ Hồ, Công (tức ông Nguyễn Trãi) đi đường, gặp Thị Lộ, đem về”. Trong sách Công Dư tiệp ký của Vũ Phương Đề còn chép lại câu chuyện tương truyền về duyên kỳ ngộ của vợ chồng bà như sau: “ Tương truyền một hôm Nguyễn Trãi đi chơi Tây Hồ, gặp một cô gái bán chiếu trẻ đẹp, ông đã xướng mấy câu thơ ghẹo nàng:

Ả ở nơi nào, bán chiếu gon?

Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?

Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi?

Đã có chồng chưa, được mấy con?

Không ngờ cô gái cũng làm thơ họa lại:

Thiếp ở Tây Hồ bán chiếu gon,

Cớ chi ông hỏi hết hay còn?

Xuân xanh vừa độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, hỏi chi con!

Nguyễn Trãi yêu sắc, phục tài bèn dò hỏi gia cảnh rồi cưới cô gái ấy (tức Nguyễn Thị Lộ) về làm thiếp.” Tuy đây chỉ là một câu chuyện lưu truyền trong dân gian song cũng đã toát lên tài năng nổi bật và khí chất hơn người ngay từ thưở thiếu thời của nữ nhân tài sắc Nguyễn Thị Lộ.

Sau lần gặp gỡ ấy, bà trở thành người thiếp đồng thời cũng là người bạn tâm giao sát cánh bên chồng, theo ông cùng vào Lam Sơn tụ nghĩa dưới ngọn cờ của thủ lĩnh Lê Lợi, góp sức trong cuộc kháng chiến đánh đuổi quân Minh, giành lại chủ quyền cho dân tộc. Đại Việt Sử ký Toàn thư không chép rõ về thời điểm diễn ra hội thề Lũng Nhai. Song tới thế kỷ 18, sử gia Lê Quý Đôn mới sưu tầm lại các tư liệu về gia phả, sắc phong các dòng họ công thần... viết nên bộ sử Đại Việt thông sử trong đó có chép “Mùa đông, năm Bính Thân (1416) vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân cận của nhà vua, liên danh hội thề nguyện sống chết có nhau.”  Theo quyển Khởi nghĩa Lam Sơn của nhà sử học Phan Huy Lê và Phan Đại Doãn thì nội dung văn thề có đoạn :“Niên hiệu Thiên Khánh thứ nhất, năm Bính Thân, tháng 2, qua ngày Kỷ Mão là ngày sóc (ngày mồng 1), đến ngày 12 là Canh Dần. Phụ đạo lộ Khả Lam nước An Nam là Lê Lợi cùng Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến kính đem lễ vật, sinh huyết tấu cáo cùng Hạo nhiên Thượng đế, Hậu thổ Hoàng địa và các tôn linh thần bậc thượng, trung, hạ coi sông núi ở các xứ nước ta…” Như vậy Nguyễn Trãi đã có mặt trong hội thề Lũng Nhai cũng có nghĩa là bà Nguyễn Thị Lộ đã nên duyên cùng ông trước năm 1416.

Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ, nữ nhà giáo đầu tiên

 Có tư liệu cho rằng, những ngày ở Lam Sơn, bởi là người hay chữ lại biết nghề thuốc, bà Nguyễn Thị Lộ đảm nhận vai trò ở hậu phương trợ giúp các nữ quyến của Bình Định vương chăm lo, dạy dỗ con em các tướng lĩnh Lam Sơn và là trợ thủ đắc lực cho chồng trong nhiều việc lớn. Tuy thông tin này không thấy chép trong chính sử, song cá nhân người viết cho rằng điều này hoàn toàn hợp lý. Rất có thể ngay từ thời kỳ kháng chiến gian khổ này, bà đã sớm có mối quan hệ tốt đẹp với hậu nhân của các vị anh hùng Lam Sơn trong đó có cả vua Thái Tông Lê Nguyên Long (con út của chủ soái Lê Lợi và Quang Thục Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của gia thần Ngô Từ).

Ngày 29 tháng 4 năm 1428, kháng chiến thành công, non sông quy về một mối, sau nhiều lần đấu tranh và cả đấu trí với nhà Minh, Bình Định vương Lê Lợi lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thuận Thiên, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt, thành lập nhà Hậu Lê. Bấy giờ vua xét công phong thưởng, Nguyễn Trãi được ban quốc tính (Lê Trãi) giữ chức Hành khiển, Lại Bộ Thượng thư kiêm Cơ Mật viện. “Phu quý phụ vinh”, Nguyễn Thị Lộ cùng những người vợ khác của ông đều trở thành các mệnh phụ phu nhân đầy vinh hiển.

Tiếc thay, vua Lê Thái Tổ sau 20 năm nếm mật nằm gai tới ngày lên ngôi chí tôn lại lâm bệnh. Vua ở ngôi được hơn 5 năm thì băng hà ngày 22 tháng 8 âm lịch năm 1433, hưởng dương 49 tuổi. Trước đây vua từng lập con trưởng Lê Tư Tề (hơn 30 tuổi) làm Quốc vương giúp trông coi việc nước, con thứ Lê Nguyên Long (mới 11 tuổi) làm Hoàng thái tử (vì lời hứa với mẹ của Nguyên Long đã hy sinh vì đại nghiệp). Nhưng Lê Tư Tề bị cho là mắc chứng điên cuồng, không hợp ý vua nên đầu tháng 8 năm 1433, vua giáng xuống làm Quận vương và giao cho Đô đốc Phạm Vấn (cậu ruột của Lê Nguyên Long), Đại Tư đồ Lê Sát và Tư khấu Lê Ngân trọng trách phò tá Hoàng thái tử. Sau khi vua Lê Thái Tổ qua đời, Hoàng Thái tử Lê Nguyên Long lên nối ngôi, tức Hoàng đế Lê Thái Tông. Tân đế tuổi còn nhỏ, không có mẫu hậu nhiếp chính, tự mình quyết định mọi việc chính là nguyên do mà các đại thần phụ chính ngày càng nắm giữ quyền lực lớn trong triều. Sau ngày vua Thái Tổ mất, cán cân quyền lực nghiêng về phía nhóm công thần xuất thân là võ tướng như Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn. Phạm Vấn vốn là cậu ruột của vua (anh trai của mẹ vua tức Cung Từ hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần đã mất khi vua mới 3 tuổi). Lê Sát là cha vợ của vua (con gái ông là Nguyên phi Lê Thị Ngọc Dao) còn Lê Ngân có con gái là Chiêu nghi Lê Nhật Lệ. Theo sách sử chép lại thì thời kỳ này đã có những bất đồng quan điểm giữa Nguyễn Trãi (một văn thần) với phe võ tướng Lê Sát, Lê Ngân, Phạm Vấn như việc tấu sớ đi sứ Minh triều năm 1434, vụ án 7 tên ăn trộm ít tuổi năm 1435, hay mâu thuẫn về quy chế lễ nghi với hoạn quan Lương Đăng năm 1437. Xét về xuất thân, Nguyễn Trãi vốn từ dòng dõi nho gia, quý tộc nhà Trần và mang tư tưởng nhân nghĩa trong việc trị quốc, lấy dân làm gốc, tu thân theo tiêu chuẩn Nho giáo. Trong khi nhiều đại thần nắm giữ quyền lớn trong triều lại xuất phát từ tướng lĩnh Lam Sơn gốc nông dân theo nghiệp võ biền, cai trị bằng sức mạnh quân đội, quen dùng quyền lực và tầm nhìn hạn chế. Hai luồng tư tưởng này nảy sinh mâu thuẫn với nhau trong khi nhà vua ít tuổi chưa đủ khả năng giữ cân bằng hai bên, lúc đó vua còn bị ảnh hưởng nhiều bởi phụ chính đại thần và cũng còn ưu ái hoạn quan (là những người thường ngày gần vua nhất, dễ dàng hiểu ý và chiều ý vua nhất). Vua Lê Thái Tông bước vào độ tuổi 15 càng tỏ rõ chính kiến riêng khác với cựu thần và thể hiện quyền uy của hoàng đế. Chính vì bất mãn trước cách thức cai trị của triều đình, những chính sách ông đưa ra không được dùng vua tin dùng và chán nản trước thế sự đảo điên chốn quan trường mà khoảng cuối năm 1437, đầu năm 1438, Nguyễn Trãi xin về hưu trí ở Côn Sơn chỉ thỉnh thoảng mới vâng mệnh vào chầu vua. Theo nghiên cứu của Trần Huy Liệu, căn cứ vào biểu tạ ơn của Nguyễn Trãi, năm 1439, vua Lê Thái Tông lại cho mời ông ra làm quan, giữ chức Hành khiển, Gián nghị đại phu kiêm Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ. Trong suốt hành trình thăng trầm trên quan trường dưới 2 triều vua của Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ luôn là người đồng hành cùng với phu quân. Sách sử không chép rõ thời điểm nào, bà được vua Lê Thái Tông cho vời vào cung, ban chức Lễ nghi học sĩ phụng chỉ dạy dỗ cung nhân. Như vậy, Nguyễn Thị Lộ chính là người phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam giữ chức vụ cao như vậy. Chức quan Lễ nghi học sĩ, dạy dỗ trong cung của bà là chưa từng có tiền lệ trong thời kỳ trọng nam khinh nữ dưới xã hội phong kiến. Bà là nữ nhà giáo đầu tiên được công nhận chính thức trong lịch sử Việt Nam. Trong khi phu quân là văn thần trên triều thì bà cũng là nữ quan tại hậu cung. Việc Nguyễn Thị Lộ nhận chức trong cung, ở gần hoàng đế đã có những ảnh hưởng tích cực tới vị vua đang ở độ tuổi “thể hiện cái tôi”. Sử thần nhà Lê là Vũ Quỳnh có lời khen bà: "Thị Lộ đã cảm hóa được Lê Thái Tông, thuyết phục vua chăm chỉ đèn sách, lại giúp vua nhiều ý kiến để sửa trị nước, trở thành một minh quân khác hẳn trước". Năm 1441, trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép: “Mùa thu, tháng 3 bắt giam hạng đàn bà ngỗ nghịch, đó là làm theo kế của Nguyễn Thị Lộ.” Cùng năm, vào tháng 11, “Cho Thái phi Phạm Thị Nghiêu được tự tử. Phạm Thị Nghiêu trước kia bị nội quan nhà Minh là Mã Kỳ bắt được, đến khi trở về, không chịu giữ tiết, đi dụ dỗ lừa dối bọn gian ác, muốn mưu việc phế lập. Vua thấy Thị Nghiêu tuổi đã già, cho vào Lam Kinh hầu Vĩnh Lăng, vì thế Phạm Thị Nghiêu càng oán vọng, tội ác đã rất rõ rệt, theo lời bàn của mọi người, bắt phải tự tử.” Liên kết hai sự kiện này lại có thể suy ra Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ đã lập kế giúp vua xử lý tội trạng của Thái phi Phạm Thị Nghiêu. Hậu cung của vua Lê Thái Tông lúc đó không có Hoàng thái hậu và Hoàng hậu, người có phẩm vị cao nhất trong cung nhân của tiên đế chính là Thái phi Phạm Thị Nghiêu (Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ đã theo con trai Lê Tư Tề ra ở phủ riêng), còn người có vị trí cao nhất trong dàn hậu phi của đương kim hoàng đế là Thần phi Nguyễn Thị Anh. Có thể thấy, bà Nguyễn Thị Lộ có vai trò và tiếng nói nhất định trong việc giúp vua Lê Thái Tông xử lý các vấn đề xảy ra trong hậu cung. Người viết đặt ra câu hỏi vì sao nhiều chính sách Nguyễn Trãi dâng lên không được vua dùng nhưng nhà vua “có vẻ lại nghe lời khuyên” của vợ ông- bà Nguyễn Thị Lộ? Mình mạo muội cho rằng có lẽ là bởi sức mạnh của thiên tính nữ, khả năng mềm mỏng, dịu dàng, lựa lời khuyên nhủ nhẹ nhàng  của bà Nguyễn Thị Lộ có sức “cảm hoá” một ông vua đang “ở tuổi dậy thì” hiệu quả hơn là những lời đao to búa lớn, trọng trách nặng nề, nghĩa vụ bổn phận mà các nhà nho hay dùng. Có thể vì giao tình đã có từ trước, có thể Nguyễn Thị Lộ quen biết mẫu hậu đã qua đời của vua, có thể bởi bà đã chứng kiến vua từ nhỏ tới lớn nên phần nào hiểu tâm tính của ngài, cũng có thể bởi vị vua sớm mồ côi mẹ đã cảm nhận được tình thân ấm áp, nhìn thấy bóng dáng mẹ hiền thông qua bà nên vua tin tưởng, tín nhiệm lời của Nữ học sĩ. Thật đáng tiếc sau khi xảy ra vụ án Lệ Chi Viên, tình cảm tốt đẹp giữa hai thế hệ của vua Lê Thái Tông và Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ lại bị kẻ khác biếm thành nghi vấn quan hệ bất chính giữa nhà vua 19 tuổi với vị phu nhân tài đức đã ngoài 40, lớn hơn vua cả hơn 20 tuổi.

Án oan thiên cổ

Theo một số tư liệu, hậu cung của vua Lê Thái Tông còn có một người nữa cũng đảm nhận vai trò chỉ bảo cho cung nhân về lễ nghi, phép tắc ứng xử, lo việc tiếp khách trong cung chính là Tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Ngô Từ). Hẳn là Lễ nghi học sĩ và Ngô Tiệp dư vốn đã quen biết từ thời còn ở Lam Sơn, thêm vào đó Ngô Tiệp dư có bà ngoại là Trần Ngọc Huy, hậu duệ của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật còn Nguyễn Trãi có ông ngoại Trần Nguyên Đán là hậu duệ của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải cũng gọi là có họ hàng xa, nay lại cùng lo việc lễ nghi trong hậu cung nên mối giao tình của hai người càng thêm thân thiết. Cũng giống như vua Thái Tông, Ngô Tiệp dư sớm mồ côi mẹ từ khi còn nhỏ, thế nên đối với Tiệp dư, Lễ nghi Học sĩ giống như người mẹ yêu thương che chở, tận tình chỉ bảo. Đáng tiếc là Nguyễn Thị Lộ kém may mắn không sinh được người con nào. Không rõ vào năm nào, bà và Nguyễn Trãi đã nhận Ngô Chi Lan (cháu gọi Ngô Thị Ngọc Dao là cô ruột) làm con nuôi và đổi tên thành Nguyễn Hạ Huệ. Điều này cho thấy mối giao hảo giữa hai nhà Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ với gia tộc họ Ngô của Ngô Tiệp dư rất tốt đẹp.

Năm 1442, không rõ vì nguyên cớ gì Ngô Tiệp dư bị vu oan hãm hại khi đang mang thai hoàng tử út, rồi bị đẩy ra khỏi hoàng cung đến tá túc tại chùa Huy Văn. Có tài liệu chép bà ở lại chùa Huy Văn và sinh hoàng tử Lê Tư Thành tại đó. Song một số nguồn tư liệu khác lại cho rằng vì lo sợ Tiệp dư ở lại Đông Kinh không an toàn, phu thê Nguyễn Trãi cùng với đại thần Đinh Liệt (người nhà bên ngoại của Tiệp dư) đã bí mật đưa bà rời khỏi chùa Huy Văn về lánh nạn ở vùng đất Đô Kỳ, Thái Bình (tư gia của họ Đinh). Đại Việt Sử ký toàn thư chép: “Mùa thu, tháng 7, ngày 20, hoàng tử Tư Thành sinh. Ngày 27 vua đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi đón vua ngự chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi.” “Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Lệ Chi ở huyện Gia Định, bỗng bị bệnh ác… vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng.” Rất nhiều sử gia đời sau dựa vào tình tiết này mà suy diễn rằng vua Lê Thái Tông và Nguyễn Thị Lộ có mối quan hệ bất chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc nhà vua băng hà khi mới 19 tuổi. Các nhà nho phong kiến sau này minh oan cho Nguyễn Trãi vô tội thì vẫn đinh ninh bà Nguyễn Thị Lộ là người giết vua. Thậm chí tới tận bây giờ ở thời hiện đại, khi đã có rất nhiều người lên tiếng bênh vực Lễ nghi học sĩ nhưng vẫn chưa thể làm sáng tỏ những dòng chữ ghi trong sử ký về cái chết của vua Lê Thái Tông. Cá nhân người viết cứ nghĩ mãi vì sao ngày 20 Ngô Tiệp dư sinh hoàng tử thì ngày 27 vua đi tuần? Tại sao vua lại chọn đi tuần ở vùng Chí Linh gần hương của Nguyễn Trãi? Vì sao khi vua về lại có Nguyễn Thị Lộ đi cùng? Và vì sao lúc vua lâm bệnh lại “thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ”? Theo hầu vua lúc đó không chỉ có Lễ nghi học sĩ mà còn có Trịnh Khả nhận cố mệnh. Theo gia phả nhà Ngô Từ thì Trịnh Khả chính là anh rể của Ngô Tiệp dư (con gái thứ của Ngô Từ là Ngô Thị Ngọc Phúc, chị gái của Ngô Thị Ngọc Dao kết hôn với Trịnh Khả). Liệu có phải chuyến đi tuần này của vua Lê Thái Tông không chỉ vì việc công (duyệt quân ở thành Chí Linh) mà vua còn có ý sắp xếp việc tư là đón mẹ con hoàng tử út vừa chào đời trở lại hoàng cung? Phải chăng vì Ngô Tiệp dư chưa được minh oan, vẫn còn mang tội song đã có công sinh được hoàng tử cho vua, có lý do chính đáng để hồi cung nên vua đến ngự ở  tư gia của Nguyễn Trãi vì muốn bàn bạc với phu thê Hành khiển phương án ổn thoả để đưa vợ con về? Nếu như vua “thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ” là bởi dự cảm thấy mình không ổn, vua đã đem những chuyện còn dở dang, tâm nguyện chưa thành với người vợ hiền và đứa con út còn đang chịu khổ, lưu lạc bên ngoài ký thác cho Lễ nghi học sĩ? Nếu những gì diễn ra ở Lệ Chi Viên là như vậy thì những ghi chép mập mờ kia có được sáng tỏ chăng? Tới 3 năm sau, vào năm 1445 Thái hậu Nguyễn Thị Anh cho đón hai mẹ con Ngô Tiệp dư về Đông Kinh, “hoàng tử Lê Tư Thành được phong tước Bình Nguyên vương vào ở kinh sư, học cùng các vương khác tại Kinh diên”, “vì Ngô Tiệp dư là mẹ của thân vương, nên đặc cách thăng Sung viên coi việc phụng thờ ở Thái miếu” liệu có phải một phần là vì di nguyện vua Lê Thái Tông để lại?

Sau khi vua băng hà, “các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến kinh sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua. Ngày 12, đại thần là bọn Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với bọn Lê Liệt (Đinh Liệt), Lê Bôi tôn hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi, bấy giờ vua mới lên 2 tuổi”. “Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời.” “Ngày mồng 9 tháng 9 giết bọn hoạn quan là Đinh Phúc, Đinh Thắng vì là khi Nguyễn Trãi sắp bị tử hình có nói là hối hận không nghe lời của Thắng và Phúc”. Ngày 4 tháng 8 khi vua băng hà, có nhiều quan quân theo hầu nhưng lại không kết tội thủ phạm mà phải chờ tới hai ngày sau về kinh sư phát tang thì triều thần mới “đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua”. Trong 2 ngày đó đã xảy ra sự việc gì, đã có những cuộc bàn bạc cân đo đong đếm lợi hại ra sao thì chỉ có các quan hộ tống mới biết rõ nội tình. Việc triều đình kết án vội vàng và nhanh chóng xử tử toàn bộ gia tộc Nguyễn Trãi chỉ trong 10 ngày khiến người ta cảm thấy có rất nhiều điều khuất tất trong vụ án này. Cá nhân người viết cho rằng, bởi sự thể nhà vua đột ngột băng hà khi còn rất trẻ là chuyện kinh thiên động địa, không ai dám gánh trách nhiệm cho việc hộ tống nhà vua mà lại để xảy ra cơ sự, cũng không ai dám tuyên bố một ông vua trẻ đang ở tuổi sung sức nhất và được xem là minh quân toàn tài lại “đột tử” (nếu họ sống ở thời đại chúng ta bây giờ, với một người có cường độ làm việc và lo toan mưu tính từ quốc sự tới gia sự như vua Lê Thái Tông thì sẽ thấy việc sức khoẻ bị ảnh hưởng dẫn tới nguy cơ đột tử/đột quỵ trẻ là chuyện không hề hiếm). Sau cùng, triều thần lựa chọn phương án “an toàn” nhất là phải có kẻ chịu tội cho cái chết của nhà vua. Vì sao “kẻ bị chọn” là Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi? Bởi lúc đó trong số những người có mặt ở Lệ Chi Viên thì Nguyễn Thị Lộ là nữ nhân và cũng chỉ đảm nhận chức nữ quan nhỏ dạy học trong hậu cung, còn Nguyễn Trãi mới trở lại chính trường chưa lâu sau thời gian xin về hưu trí. Chưa kể một trong những lý do lớn khiến Nguyễn Trãi từng từ quan (cuối năm 1437) đến từ những quan điểm bất đồng và thái độ bất bình của ông với chốn quan trường, nên rất có thể ông đã bị nhiều kẻ ghen ghét. Tại sao lại kết án “tru di tam tộc”- hình phạt thảm khốc nhất dưới thời phong kiến? Phải chăng vì có khuất tất nên phải “nhổ cỏ tận gốc”, người chết thì không thể làm chứng cũng chẳng thể điều tra lật lại vụ án sau này. Rất mau chóng, triều đình thi hành án, Nguyễn Thị Lộ cùng cả gia tộc Nguyễn Trãi chết thảm, di sản văn chương và sách của ông bà đều bị tiêu huỷ. Nếu người vợ thứ tư của Nguyễn Trãi là bà Phạm thị đang mang thai không kịp chạy thoát thì sau này vua Lê Thánh Tông không thể nào tìm lại được hậu duệ của ông (con trai út Nguyễn Anh Vũ) để khôi phục lại dòng dõi của vị Anh hùng dân tộc đã giúp đỡ mẹ con vua trong những tháng ngày nguy khốn.

Thương thay thân phận má hồng Dấn thân vào chốn quan trường bi ai…

Nếu như các Nho gia đời sau đã dày công sáng tác ra cả một giai thoại “rắn báo oán” để biện minh cho việc triều đình xử oan Nguyễn Trãi là do yêu ma quỷ quái làm ra, biến Nguyễn Thị Lộ - vị nữ học sĩ đầu tiên của Đại Việt trở thành hình ảnh độc phụ “xà tinh báo oán”, thì nhiều nhà nghiên cứu thời hiện đại vì muốn lý giải cho oan khiên của Lễ nghi học sĩ và gia đình Nguyễn Trãi lại đem “cái tội giết vua, mưa hại lương thần” gán cho Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Thị Anh, hai nữ nhân đặc biệt trong triều vua Lê Thái Tông cùng có xuất thân thường dân nhưng không chọn an phận nơi hậu cung, hậu trạch mà dấn thân vào chốn quan trường, dốc sức mình tham dự triều chính. Một người là mệnh phụ phu nhân rồi thành nữ quan thân cận bên vua, một người là phi tần hậu cung rồi thành Thái hậu nhiếp chính, khởi nhân duyên từ vụ án oan thiên cổ. Năm 1442, Thái hậu Nguyễn Thị Anh là người đại diện cho Hoàng đế hạ lệnh xử tử Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và tru di tam tộc Nguyễn Trãi trong vụ án oan thiên cổ Lệ Chi Viên. 17 năm sau, năm 1459, Thái hậu Nguyễn Thị Anh lại phải ôm hận băng hà, mang đau thương mà chết trong vụ đảo chính của Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân- sử gọi là Diên Ninh chính biến (Lê Nghi Dân đang đêm trèo tường vào cung cấm sát hại cả vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn Thị Anh rồi cướp ngôi). Xem ra, số phận của những người phụ nữ tham gia chính trường thời xưa chẳng có ai tránh được những lời phán xét khắt khe, những nghi vấn vu oan thậm chí là bị buộc tội, bị sát hại. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chưa bao giờ là dễ dàng và nhẹ nhàng cho những nữ nhân dám dấn thân vào quan trường, theo đuổi con đường chính trị.

Phải 22 năm sau khi Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và gia tộc Nguyễn Trãi bị xử tử, “năm 1464 vua Lê Thánh Tông xuống chiếu đại xá cho Nguyễn Trãi”, “bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan”. Thế nhưng chiếu nhà vua cũng chỉ xá tội cho Nguyễn Trãi chứ không hề nhắc tới người bị kết án “giết vua” là bà Nguyễn Thị Lộ, nỗi oan khiên của bà vẫn chưa được giải. Dù triều đình vô tình hay cố ý lãng quên bà thì trong dân gian, dân chúng vẫn bày tỏ lòng tôn kính và lập đền thờ Nữ học sĩ ở thôn Khuyến Lương phường Trần Phú, Quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Ngôi đền nằm cạnh đê sông Hồng, và cách đền thờ Nguyễn Trãi chừng 500m. Trong đền hiện nay có một bức tượng và một tấm tranh vẽ chân dung bà. Hằng năm, vào ngày 16 tháng 8 âm lịch dân làng đều tổ chức lễ giỗ trọng thể. Ngoài ra, bà còn được thờ chung với Nguyễn Trãi ở xã Tân Lễ (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) và Lệ Chi Viên (Bắc Ninh)- nơi xảy ra vụ án oan kinh thiên động địa. Sang thế kỷ 21, vào tháng 12/2002, lần đầu tiên, một Hội thảo khoa học về Lễ nghi học sỹ Nguyễn Thị Lộ đã được tổ chức và công khai đánh giá về tài năng đức độ của bà với cái nhìn khách quan, ghi nhận công lao đóng góp của bà: “Tôn vinh Bà như một nữ sĩ tài hoa, một nhà giáo nữ sớm nhất được biết tên, văn chương và phẩm hạnh tuyệt vời, người bạn đời tâm đầu ý hợp của danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Hơn nữa, chính bà đã cùng chồng cứu sống mẹ con hoàng phi Ngô Thị Ngọc Dao và hoàng tử Tư Thành, tức đã bảo vệ cho đất nước một minh quân lỗi lạc của văn hoá Đại Việt : Hoàng đế Lê Thánh Tông”.

  (Nguồn tư liệu & Ảnh: Wikipedia, Internet, Gia phả họ Ngô Việt Nam (ngotoc.vn) )

  Đọc thêm:

Nữ nhân Đại Việt Án oan thiên cổ Lệ Chi Viên Nguyễn Thị Lộ Lễ nghi học sĩ
Còn lại: 5