Nữ Nhân Đại Việt: Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị Anh: Đằng Sau Bức Rèm

Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích

Trong 5 người vợ được chính sử ghi chép lại của vua Lê Thái Tông thì có đến 2 bà về sau cùng bước lên ngôi vị cao nhất của nữ nhân thời phong kiến: Thánh mẫu Hoàng thái hậu. Nếu như Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao (mẹ vua Lê Thánh Tông) được người đương thời ca ngợi là “Phật sống” thì người tiền nhiệm của bà, Tuyên Từ Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh (mẹ vua Lê Nhân Tông) lại bị nhiều người đời sau xem là “bà hoàng tàn ác” sát hại công thần. Sử chép: Tháng 8 năm 1442, vua Lê Thái Tông đột ngột qua đời ở Lệ Chi viên, tư gia của Hành khiển Nguyễn Trãi dẫn tới vụ án tru di tam tộc nhà cụ Ức Trai. “Năm Thái Hòa thứ nhất (1443), vua Lê Nhân Tông (3 tuổi) cùng quần thần mang kim sách dâng tôn hiệu Hoàng thái hậu cho Thần phi. Các đại thần dâng tờ biểu mong bà buông rèm nhiếp chính”. Thần phi Nguyễn Thị Anh trở thành Thái hậu nhiếp chính cho con trai ở độ tuổi mới ngoài 20. Nữ nhân ấy buông rèm nhiếp chính, toàn quyền giải quyết chính sự suốt 11 năm cho tới khi vua Lê Nhân Tông lên 13 tuổi (năm 1453). Đằng sau “bức rèm” chắc hẳn có không ít chuyện đáng để bàn luận.  

23. NNDV Nguyen Thi Anh.jpg

Từ thường dân tới phi tần

Tuyên Từ thái hậu Nguyễn Thị Anh là người xã Bố Vệ huyện Đông Sơn (nay là phường Hạc Thành), Thanh Hóa. Sách Đại Việt thông sử miêu tả “bà là người hiền dịu, sáng suốt, nhưng không rõ gia thế về cha mẹ và xuất thân. Khi bà vào cung, liền được phong làm Thần phi”. Theo đó có thể khẳng định Thái hậu Nguyễn Thị Anh vốn thuộc tầng lớp thường dân trong xã hội bấy giờ nên dù bà có 11 năm nhiếp chính, nắm quyền lực cao nhất Đại Việt nhưng sử sách không chép gì về thân thế của bà bởi không có gì đặc biệt. Điều này khiến người viết liên tưởng tới trường hợp của Nguyên phi Ỷ Lan mẹ của vua Lý Nhân Tông. Và có lẽ nhân duyên giữa vị vua trẻ Lê Thái Tông và thiếu nữ Nguyễn Thị Anh cũng có nét tương đồng, rất có thể nhà vua đã gặp nàng ở ngoài hoàng cung trong lúc vi hành hoặc trên đường bái yết Lam Kinh. Hậu cung của Lê Thái Tông là chốn trăm hoa khoe sắc, thế mà một dân nữ lại có thể lọt vào mắt xanh của Hoàng đế thì chắc hẳn bà không chỉ có nhan sắc mà có cả tư chất thông minh, bản lĩnh, sắc sảo hơn người.

Không có tư liệu nào chép rõ Nguyễn Thị Anh nhập cung năm nào nhưng về sau có những nghi ngờ về thân thế của vua Lê Nhân Tông không phải giọt máu của vua Lê Thái Tông là “sáu tháng nở hoa” ý rằng Thần phi nhập cung đã mang thai 3 tháng rồi. Thậm chí trong chiếu lên ngôi của Lê Nghi Dân sau chính biến Diên Ninh cũng có đoạn “Diên Ninh tự biết mình không phải là con của tiên đế” , nếu Nghi Dân dám công khai lấy nghi vấn thân thế của Lê Bang Cơ ra làm cớ biện minh cho hành vi cướp ngôi thì hẳn rằng quả thực năm xưa Thần phi Nguyễn Thị Anh đã mang thai trước ngày nhập cung, có lẽ là khoảng cuối năm 1440 bởi Lê Bang Cơ được sinh vào tháng 6 năm 1441. Tại thời điểm năm 1440, vua Lê Thái Tông đã hoàn tất công cuộc “dẹp loạn quyền thần” thông qua 2 hạ bệ các ông bố vợ: giết Lê Sát phế Nguyên phi Lê Thị Ngọc Dao (tháng 7 năm 1437) rồi tiếp tục xử tội Lê Ngân giáng Huệ phi Lê Nhật Lệ xuống làm Tu dung (tháng 12 năm 1437), từ đó vua toàn quyền làm chủ chính sự. Người viết mạo muội đồ rằng có lẽ vị vua trẻ đã “ngán” các ông bố vợ “quyền cao chức trọng” nên các bà phi được lập tiếp theo đều không xuất thân trong dòng dõi quan viên đầu triều. Như Quý phi Dương Thị Bí chỉ có anh trai làm ở Thái y viện (không tham chính). Về sau Dương phi cậy vào việc sinh được Hoàng trưởng tử Lê Nghi Dân và Vệ Quốc trưởng công chúa, “ỷ sủng sinh kiêu” làm loạn hậu cung nên bị vua chán ghét, giáng xuống làm Chiêu nghi rồi tiếp tục phế làm thứ dân. Lúc này phi tần Nguyễn Thị Anh xuất thân bình dân, được vua sủng ái và phong làm Thần phi. Mặc dù sách Đại Việt thông sử chép “Khi bà vào cung, liền được phong làm Thần phi” song người viết cho rằng với tính cách quyết đoán và khuynh hướng tập quyền của vua Lê Thái Tông thì có lẽ phải sau khi Nguyễn Thị Anh sinh hạ Hoàng tam tử Lê Bang Cơ thì nhà vua mới phong tước Thần phi cho bà nhằm đảm bảo tính chính danh và cũng là để vị phi tần đến từ dân gian thích ứng với địa vị nữ nhân đứng đầu hậu cung. Có lẽ bản thân Nguyễn Thị Anh cũng không thể ngờ chỉ trong một thời gian ngắn mà bà “một bước lên mây”, chưa đầy một năm “chim sẻ hoá phượng hoàng”. “Hồng phúc” đó không chỉ nhờ vào ân sủng của Hoàng đế mà còn cho thấy ở bà có những phẩm chất quý, thiên tư tốt khiến nhà vua tin tưởng, yêu thương và chọn làm người vợ đồng hành. Thần phi Nguyễn Thị Anh cũng chính là vị Hoàng thái hậu đầu tiên và duy nhất của nhà Hậu Lê thực hiện “Thùy liêm thính chính” (buông rèm nhiếp chính), làm chủ quốc sự thay cho Hoàng đế nhỏ tuổi.

Hoàng thái hậu buông rèm nhiếp chính

Ngày 4 tháng 8 âm lịch năm 1442, đương trong chuyến đi tuần miền Đông, vua Lê Thái Tông đột ngột băng hà tại vườn vải xã Đại Lai ven sông Thiên Đức (sông Đuống) ở hương của Nguyễn Trãi. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng. Các quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến kinh sư, nửa đêm đem vào cung mới phát tang. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua. Ngày 12, đại thần là bọn Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê Thụ nhận di mệnh cùng với bọn Lê Liệt (Đinh Liệt), Lê Bôi tôn hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi, bấy giờ mới lên 2 tuổi”. “Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời.” “Ngày mồng 9 tháng 9 giết bọn hoạn quan là Đinh Phúc, Đinh Thắng vì là khi Nguyễn Trãi sắp bị tử hình có nói là hối hận không nghe lời của Thắng và Phúc”. Tháng Giêng năm 1443, “bấy giờ vua lên 3 tuổi, xin thái hậu buông rèm nghe chính sự, tạm quyết đoán việc nước”. Những gì chính sử ghi chép lại về vụ án oan thiên cổ Lệ Chi Viên chỉ có vậy. Có lẽ bởi tư liệu quá ít ỏi, thông tin khá mơ hồ nên hậu thế về sau nảy ra nhiều suy đoán và cả suy diễn về cái chết của vua Lê Thái Tông. Dưới tam quan của thời đại phong kiến dường như tội lỗi tày đình đem đổ cho nữ nhân là dễ dàng nhất. Mặc dù vua đi tuần có rất nhiều quan theo hầu nhưng ngay khi vua băng hà không hề kết tội thủ phạm nếu có mà triều thần chờ tới hai ngày sau đó đem thi hài vua về kinh sư phát tang thì mới “đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua”. Trong 2 ngày đó đã xảy ra sự việc gì, đã có những cuộc bàn bạc cân đo đong đếm lợi hại ra sao thì chỉ có các quan hộ tống mới biết rõ nội tình. Việc triều đình kết án vội vàng và nhanh chóng xử tử toàn bộ gia tộc Nguyễn Trãi khiến người ta cảm thấy có nhiều điều khuất tất trong vụ án này. Nếu như các nhà Nho phong kiến sáng tác ra cả một giai thoại “rắn báo oán” để biện minh cho việc triều đình xử oan Nguyễn Trãi là do yêu ma quỷ quái làm ra, biến vị nữ học sĩ đầu tiên của Đại Việt trở thành hình ảnh độc phụ “xà tinh báo oán”, thì nhiều hậu thế sau này muốn lý giải cho oan khiên của gia đình Nguyễn Trãi lại đem “cái tội giết vua, mưa hại lương thần” đổ lên đầu Thái hậu Nguyễn Thị Anh với lời buộc tội “"Cuối cùng bọn gian thần phía bà phi Nguyễn Thị Anh âm mưu giết hại vua Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ để giành ngôi cho Bang Cơ khỏi rơi vào tay Tư Thành, người được Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ ủng hộ". Đáng mừng là hiện nay đã có nhiều người lên tiếng bênh vực cho Thái hậu Nguyễn Thị Anh và đưa ra ý kiến phản biện, người viết xin được trích dẫn lại lời nhà nghiên cứu lịch sử Vũ Thị Hường như sau: Thứ nhất, Lê Tư Thành là con thứ tư, mới sinh được 14 ngày, mẹ của Tư Thành chỉ được phong Tiệp dư, không phải là mối đe dọa với mẹ con bà Nguyễn Thị Anh. Thứ hai, Lê Thái Tông là vị vua tài giỏi, không dễ để giết (ông vua mới 11 tuổi lên ngôi, 12 tuổi đã thân chinh đi tuần biên giới, 15 tuổi đã xử tử 2 ông bố vợ quyền thần Lê Sát và Lê Ngân, 16 tuổi phế huynh trưởng Lê Tư Tề làm thứ dân, 19 tuổi ép mẹ kế Thái phi Phạm Thị Nghiêu phải tự sát thì hẳn là vua đã kinh qua đủ loại âm mưu ám toán). Thứ ba, Nguyễn Thị Anh đang được sủng ái, con là Bang Cơ được lập Hoàng thái tử, ngôi kế vị cầm chắc trong tay, lẽ nào lại đi giết vua, giết đi chỗ dựa vững chắc nhất của họ. Và thứ tư, Nguyễn Trãi lúc ấy không đóng vai trò quan trọng trong triều đình, Nguyễn Thị Lộ chỉ là Lễ nghi học sĩ dạy cung nhân, không đủ quyền lực để tôn phù hay hạ ai xuống. Tác giả cũng cho rằng, Lê Thái Tông chết đột ngột ở Lệ Chi Viên, Nguyễn Trãi chỉ là người không may mắn bị gán tội mà thôi. Cá nhân người viết đồng tình với nhận định của tác giả Vũ Thị Hường. Lúc vua Lê Thái Tông qua đời, Nguyễn Thị Anh không ở bên cạnh, không biết rõ sự tình. Thần phi chỉ ở chốn hậu cung còn đang dốc lòng chăm sóc đứa con nhỏ, đột ngột nhận hung tin mất chồng. Người goá phụ mới chỉ 20 ấy vừa trong lúc tang gia bối rối, vừa phải chuyển sang vai trò trụ cột gánh vác chính sự để giữ vững ngôi vị cho con trai mới bước sang tuổi thứ 2 đã thành tân đế kế vị. Thái hậu xuất thân từ thường dân nên lúc đó không hề có gia tộc chống lưng hay ngoại thích đỡ đần, bà chỉ có thể dựa vào các đại thần nhận di mệnh phò tá Hoàng thái tử Bang Cơ. Bởi thế triều thần kết luận nguyên nhân cái chết của vua Lê Thái Tông thế nào, thủ phạm là ai thì bà chỉ có thể đồng thuận thế ấy.

Dù còn rất nhiều thị phi, tranh cãi về bà hoàng Nguyễn Thị Anh, song các sử gia không thể phủ nhận Thái hậu là người có tài cai trị đất nước trong thời kỳ nhiếp chính cho vua Lê Nhân Tông, giúp Đại Việt tiếp tục duy trì sự ổn định trong nội trị, hoà hảo với ngoại bang, mở mang bờ cõi. Trong 11 năm Thái hậu thuỳ liêm thính chính, triều đình đã mở khoa thi Hội tuyển chọn nhân tài, tổ chức đào sông khơi thông tuyến vận tải, phát binh đánh dẹp Chiêm Thành xâm lấn, sáp nhập xứ Bồn Man (trước thuộc Ai Lao) thành châu Quy Hợp của Đại Việt. Bà góp công lớn trong việc phát triển đất nước tiếp nối thành tựu của thời kỳ thịnh trị triều Thái Tổ, Thái Tông.

Đối với Hoàng tử út của tiên đế còn lưu lạc bên ngoài và Ngô Tiệp dư đang mang tội, Thái hậu cũng thể hiện lòng khoan dung. Không rõ trong nhưng năm tháng mẹ con Lê Tư Thành mai danh ẩn tích đã xảy ra những biến cố gì song một thời gian sau, vào năm 1445 Thái hậu cho đón hai mẹ con về Đông Kinh, “hoàng tử Lê Tư Thành được phong tước Bình Nguyên vương vào ở kinh sư, học cùng các vương khác tại Kinh diên”, “vì Ngô Tiệp dư là mẹ của thân vương, nên đặc cách thăng Sung viên coi việc phụng thờ ở Thái miếu”. Rất có thể lúc này oan ức của Ngô Thị Ngọc Dao đã được làm rõ, Tiệp dư được minh oan, đồng thời ngai vàng của Hoàng đế Lê Nhân Tông đã vững nên Thái hậu hạ lệnh đón mẹ con Lê Tư Thành. Sử quan khi nói về vua Lê Thánh Tông ở giai đoạn này có đề cập Bình Nguyên vương “được Thái hậu yêu mến như con đẻ và được Nhân Tông coi như người em hiếm có”.

Thái hậu cũng cho thấy bà là người cai trị vừa cứng rắn vừa mềm dẻo trong việc giữ cán cân quyền lực trên triều. Học tập tiền nhân, bà sử dụng hôn nhân chính trị để vừa thi ân vừa ràng buộc mối quan hệ thân tộc với các đại thần. Sử chép: “Năm1445, mùa đông tháng 10 gả hoàng nữ thứ 2 là An Quốc công chúa (mới 6 tuổi) cho Lê Bá Nhai, con trai Lê Khắc Phục (Trịnh Khắc Phục)”. “Năm 1448 tháng 11 đem Đích trưởng tỷ là Vệ Quốc trưởng công chúa gả cho Lê Quát, con trái Thái uý Lê Thụ. Công chúa mới lên 10 tuổi, câm không nói được.” Điều đó cho thấy Thái hậu sẵn sàng gả các công chúa còn nhỏ, chưa đến tuổi thành niên để thiết lập liên minh với đại thần. Thế nhưng Thái hậu cũng thẳng tay loại bỏ bất kỳ mối nguy hại tiềm ẩn có nguy cơ lung lay hoàng quyền. “Năm 1451, tháng 7 giết Lê Khả (Trịnh Khả) và con là Lê Quát (Trịnh Quát), Trịnh Khắc Phục và con là phò mã Trịnh Bá Nhai”, “do có người gièm pha họ kết đảng”, “đương thời cho rằng những người này bị oan”. “Năm 1452, tháng 4 bắt giam Lê Thụ và con trai Lê Thị. Về sau tới năm 1453, vua Lê Nhân Tông tự mình chấp chính, đã minh oan, cho ân xá cấp ruộng cho con cháu các ông Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả, Trịnh Khắc Phục. Tới tháng 6 năm 1456 thì vua Nhân Tông tha cho Lê Thụ ra khỏi ngục.

Đại Việt Sử ký Toàn thư có đoạn: “Năm 1448, tháng 8 Giám sát ngự sử Cao Mỗ bị miễn chức trở về làm thuộc viên ở Trung thư như cũ. Mô giữ chức được vài tháng, dâng sớ nói bọn quốc cữu (cậu của vua) là Nguyễn Phụ Lỗ không nên cho làm Tham tri từ tụng, trái ý thái hậu, nói thác là bị ốm xin giải chức, cho nên miễn.” Từ đó có thể thấy, trong thời gian nắm quyền Thái hậu đã đưa họ ngoại vào triều và có ý phát triển Nguyễn tộc thành một thế lực mới trong triều. Song có lẽ người họ Nguyễn chưa đủ sức đủ tài để nắm giữ các vị trí quan trọng.

Tuy là nữ nhân nắm giữ quyền lực cao nhất Đại Việt nhưng Thái hậu Nguyễn Thị Anh không hề tham quyền cố vị. Vào tháng 11 năm 1453, khi vua Lê Nhân Tông lên 13 tuổi, Hoàng thái hậu lui về hậu cung trao lại quyền lực cho nhà vua tự mình chấp chính. Lúc này bà cũng mới ngoài 30, còn trẻ tuổi. Có thể thấy suốt 11 năm buông rèm nhiếp chính, Thái hậu vừa chăm lo giáo dưỡng vị vua nhỏ tuổi, vừa chủ trì chính sự, ổn định hậu cung, đảm bảo quyền uy của hoàng vị. Với vai trò là Thánh mẫu của Hoàng đế, bà đã nỗ lực hết sức, chấp nhận cả những sai lầm, bỏ ngoài tai điều tiếng thị phi, làm tất cả để dọn đường cho con trai, giữ vững ngai vàng cho hoàng đế nhỏ tuổi. Và vị Hoàng đế trẻ cũng đã cho thấy tài năng trị quốc không phụ tấm lòng và kỳ vọng của Hoàng thái hậu. Sử gia Ngô Sĩ Liên đánh giá Lê Nhân Tông là một vị minh quân tài năng đức độ “Vua tuổi còn thơ ấu đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú đường hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ.”

Nữ nhân bạc mệnh

Vận mệnh luôn có cách khiến người ta ngỡ ngàng. Nguyễn Thị Anh, nữ nhân đến từ tầng lớp thường dân chỉ trong một năm nhận ân sủng đã bước tới địa vị Thần phi đứng đầu hậu cung, có con trai được lập làm Hoàng thái tử. Cũng chỉ trong mấy tháng biến cố phong ba bão táp xảy ra, vị phi tần mới hơn 20 tuổi một lần nữa đổi mệnh, trở thành Thái hậu nhiếp chính nắm giữ đại quyền. Để rồi trong vòng xoáy thời cuộc, Hoàng thái hậu tài hoa chịu đau đớn qua đời chỉ sau một đêm đông. Sử chép: Ngày 3 tháng 10 năm 1459, “Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân đang đêm cùng các thủ hạ bắc thang vào trộm trong cung cấm. Vua và Hoàng thái hậu đều bị giết”. Thái hậu đột ngột băng hà khi mới ở tuổi 38 tuổi còn con trai bà vua Lê Nhân Tông mới 19 tuổi. Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân ôm hận bị truất ngôi Hoàng thái tử, cộng thêm những lời dị nghị về thân thế của vua em Lê Nhân Tông (do Thần phi Nguyễn Thị Anh nhập cung 6 tháng đã hạ sinh Bang Cơ) mà đảo chính. Việc làm của Nghi Dân là “đại nghịch bất đạo”, “tội ác tày đình” không thể dung thứ. Vì thế mà Nghi Dân tiếm ngôi 8 tháng thì bị các cựu thần lật đổ, phế làm Lệ Đức hầu và bị bắt tự thắt cổ chết. Triều thần đón Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi nối đại thống tức vua Lê Thánh Tông vào tháng 6 năm 1460. Sử chép vua Lê Thánh Tông lên ngôi, làm lễ phát tang cho vua anh và thái hậu. “Ngày Tân Mùi, làm lễ cáo miếu đem Nhân Tông lên thờ phụ. Ngày Quý Dậu, rước kim sách dâng tôn hiệu làm Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh Hoàng đế, miếu hiệu là Nhân Tông; dâng thuỵ hiệu cho thái hậu là Tuyên Từ Nhân Ý Chiêu Túc Hoàng thái hậu. Đêm hôm ấy trời mưa to. Từ mùa xuất đến đây không mưa, khi rước Nhân Tông lên thờ phụ rồi mới mưa.” Vậy là 8 tháng sau khi qua đời, Tuyên Từ Thái hậu và vua Lê Nhân Tông mới được vua Lê Thánh Tông làm tang lễ. Quả thực vô cùng bi ai! Thế sự xoay vần, chuyện đúng sai có lẽ còn phải suy xét nhiều khía cạnh. Rất có thể bởi lòng yêu kính dành cho Thái hậu cùng vua Nhân Tông và cũng là để giữ tôn nghiêm của Hoàng tộc nên phải đến “năm 1464 vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu đại xá cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan”. Vì uy nghiêm của thánh chỉ tiền triều, vua Thánh Tông cũng chỉ xá tội chứ không thể tuyên bố minh oan cho Nguyễn Trãi và cũng không nhắc tới người bị kết tội trực tiếp là Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ, song nhà vua cũng đã nỗ lực bù đắp lại sai lầm của đời trước. Tới năm 1467 thì vua ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn của Nguyễn Trãi.

Tuyên Từ Hoàng thái hậu là nữ nhân bạc mệnh, cuộc đời vắn số. Con trai bà (vua Lê Nhân Tông) cũng đoản mệnh như người chồng của bà (vua Lê Thái Tông). Song trước khi “vụt tắt” bà đã sống một “cuộc đời huy hoàng” có cả hân hoan lẫn bi thảm, có yên bình và sóng gió chông gai, trải đủ phúc phận lẫn vận mệnh éo le, xuất thân từ thường dân bước tới ngôi vị Hoàng thái hậu nhiếp chính và để lại cho hậu thế những dấu ấn đặc sắc về tài năng và số phận của một nữ nhân hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam.

(Nguồn tư liệu: Đại Việt sử ký toàn thư, Wikipedia, Internet
Ảnh: Đại Việt kỳ nhân)

Đọc thêm:

Nữ nhân Đại Việt Lê Thái Tông Ngô Thị Ngọc Dao Tuyên Từ thái hậu Nguyễn Thị Anh
Còn lại: 5