Trung Thu nơi Toàn sống không có phố đèn lồng rực rỡ, cũng chẳng có tiếng nhạc rộn rã thâu đêm. Chỉ có trăng tròn treo lơ lửng trên lũy tre, rọi xuống cánh đồng mênh mông còn vương mùi rạ mới gặt. Sân đình đêm ấy trở thành điểm hẹn. Người lớn trong xóm chuẩn bị mâm cỗ cúng trăng: quả bưởi xẻ hoa, nải chuối xanh, bát bỏng ngô vàng ươm, thỏi kẹo vừng còn nóng hổi và vài miếng cốm dẻo thơm mùi đồng nội. Bọn trẻ con ríu rít tụm năm tụm bảy, tay cầm đèn ông sao, đèn cá chép làm bằng giấy bóng mờ, tre khô, gò nẹp. Đứa nào khéo tay thì chắp ghép ống tre, gọt tỉa vỏ bưởi, còn đơn giản thì chỉ một lon sữa bò cắm ngọn nến hồng. Nhưng vui nhất vẫn là tiết mục “đốt pháo”. Nói là “pháo” cho oai, nhưng thực chất chỉ là những xâu hạt bưởi khô mà bọn chúng gom lại sau khi phá cỗ. Que diêm vừa bén lửa, từng hạt nổ lách tách, xẹt ra những tia sáng li ti, vút lên rồi rơi xuống như những vì sao nhỏ rải rác giữa đêm tối.
"Trăng đêm nay sáng quá, Thắng cùng bố ra đình làng phá cỗ đi".
Trong nhà, bé Thắng, đứa con trai nhỏ của Toàn ngồi cặm cụi bên bậc cửa. Trước mặt là những vật dụng thô sơ: vài que tre mảnh, lon sữa vừa uống xong, tờ giấy màu sờn, một sợi kẽm cong cong, và cây nến tí hon.
"Chờ chút nữa ba, con sắp xong rồi", Thắng vừa nói, vừa lom khom hì hụi giữa đống đồ trên bàn nom có vẻ tập trung lắm.
Không biết vì sao năm nay, thằng bé không nhõng nhẽo đòi ba làm đèn như mọi lần, mà tự mày mò. Mẹ nó bảo sau khi anh trở về thăm nhà, trông cu cậu chững chạc hơn hẳn, dáng người thẳng, ánh mắt sâu thẳm và nghiêm nghị, khiến Toàn cảm thấy mình bỗng chốc già đi.
Bàn tay non nớt hí hoáy khoét một ô nhỏ trên thân lon làm “cửa sổ”, rồi luồn sợi kẽm thành tay cầm, ghép mấy que tre con lại thành khung cánh. Bên ngoài, tờ giấy màu được dán vội vã, loang lổ vết keo lem nhem; bên trong, cây nến tí hon chập chờn soi lên khung giấy mỏng. Không phải đèn cá chép, cũng chẳng phải đèn ông sao, mà là chiếc đèn hình máy bay thô sơ được hình thành từ trí tưởng tượng non nớt của Thắng qua lời kể của ba nó. Chỉ một lát sau, thành phẩm hoàn thiện được đung đưa trước ánh mắt ngỡ ngàng của Toàn.
Một luồng ký ức ùa về, đưa anh trở lại bầu trời xanh biếc và những tháng ngày rèn luyện gian khổ nơi Trường Không quân Krasnodar. Đoàn tàu chở hơn ba trăm con người đầy nhiệt huyết và khát vọng, lăn bánh qua đất Trung Quốc, men theo thảo nguyên Nội Mông, rồi vượt dãy Trung Á mênh mông của Liên Xô. Hành trình kéo dài nửa tháng trời, đưa họ đến Mátxcơva như một thước phim còn in đậm trong ký ức.
Ngày đầu ở đất bạn là những buổi học tiếng Nga cấp tốc. Do yêu cầu gấp gáp của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng và Chính phủ thúc giục việc đào tạo phi công phải nhanh chóng và kịp thời, các học viên chỉ có ba tháng làm quen với dãy số ký hiệu và con chữ lạ lẫm. Có người trình độ chỉ hết lớp bảy, tiếng ngoại quốc vừa nghe đã lạc, vừa viết đã quên. Thế nhưng, với lòng quyết tâm và khát khao sớm trở về phụng sự Tổ quốc, dưới ánh trăng vằng vặc soi qua khung cửa sổ ký túc, những chàng trai trẻ ngày đêm miệt mài đèn sách, bền bỉ phá vỡ rào cản ngoại ngữ, đặt những bước đi đầu tiên trên hành trình mở cánh cửa bầu trời.
Chông gai phía trước còn rất dài sau một thời gian ngắn ngủi học tiếng, vào đầu năm 1966, cả đoàn bước vào chương trình lý thuyết với lịch học dày đặc: từ khí động học, cấu tạo động cơ, hệ thống vũ khí cho đến khí tượng hàng không. như một guồng máy không nghỉ.
Bốn tháng học lý thuyết, và sự giúp đỡ rất nhiều từ học viên nước bạn Liên Xô, Toàn và đồng đội được chuyển sang tập bay trên L-29, là loại máy bay huấn luyện phản lực tiêu chuẩn cho các Lực lượng không quân Việt Nam vào thập niên 1960. Lần đầu được bước vào thực hành, Toàn không giấu được sự hồi hộp. Trước mắt anh là một mê trận nút bấm, đồng hồ, kim chỉ, toàn những thứ xa lạ mà vừa học thuộc trong sách, xen lẫn mùi kim loại lạnh, mùi da ghế ngai ngái, cả tiếng lách cách khi chạm tay vào cần điều khiển. Nhưng rồi, cảm giác sợ hãi ấy dần lùi lại, nhường chỗ cho niềm say mê và khát vọng làm chủ buồng lái. Không biết từ bao giờ, Toàn đã coi tiếng động cơ rền vang như nhịp thở quen thuộc của chính mình.
Những đêm huấn luyện, khi máy bay vút qua tầng mây, ông trăng hiện ra như một quả cầu lửa lơ lửng giữa khoảng không mênh mang, soi rõ từng đường gân mây, từng vệt sương bám trên cánh thép. Ánh sáng ấy không còn dịu dàng, mờ ảo như lúc ngắm từ sân gạch quê nhà, mà gần gũi đến mức tưởng chừng chỉ cần đưa tay ra là chạm tới. Toàn bất giác nhớ về chiếc bánh đa vừng giòn thơm của mẹ, cái nong phơi thóc óng vàng và chiếc mâm đồng sáng bóng mỗi dịp giỗ chạp. Ở nơi ấy, mẹ anh giờ này có lẽ chưa ngủ. Bà thường ngồi nhặt thóc, sảy gạo bên nong, làm bánh đa, bánh đúc để kịp bán buổi chợ mai. Từ ngày bố Toàn hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, chính những đêm dài lặng lẽ ấy đã nuôi anh khôn lớn. Nay, khi đất nước lại bước vào cuộc chiến mới, Toàn nối gót cha đi theo tiếng gọi Tổ quốc. Ngày anh thưa chuyện với mẹ cũng là ngày bà nén buồn trong lòng, bởi lính không quân là lực lượng gánh chịu rủi ro lớn nhất.
Sau hơn ba mươi chuyến bay có thầy kèm, Toàn được bay đơn, tự mình cất cánh, hạ cánh, thực hiện các động tác cơ bản dưới sự theo dõi từ mặt đất. Rồi anh tiếp tục chuyển loại sang MiG-21, dòng máy bay hiện đại bậc nhất lúc bấy giờ. Mỗi giai đoạn đều đi kèm những kỳ thi khắt khe: lý thuyết, điều khiển, bắn tên lửa vào mục tiêu giả định.
Cuộc sống nơi xứ lạnh tôi luyện Toàn bằng cách khắc nghiệt nhất, thế nhưng, chính giữa vùng đất lạnh giá ấy, anh học cách thích nghi, rèn ý chí, mài giũa bản lĩnh; và quan trọng hơn, anh tìm thấy tình đồng đội - thứ sưởi ấm con người hơn mọi ngọn lửa, cùng niềm tin vào sứ mệnh thiêng liêng mà mình đã chọn. Để rồi qua từng kì kiểm tra, Toàn may mắn trụ lại, tích lũy giờ bay, hoàn thành khóa huấn luyện, mang trong lòng niềm tự hào và cũng là trách nhiệm nặng nề: được trở về quê hương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ bầu trời Tổ quốc.
Dòng ký ức lặng lẽ khép lại như trang sổ cũ được gấp gọn. Trước mắt anh là đôi mắt đen láy, tròn xoe của thằng bé Thắng. Nó dụi đầu vào cổ bố, ánh sáng lồng đèn phản chiếu lên nét mặt thơ dại.
"Bố thấy Thắng làm có đẹp không, có giống với con chim sắt mà bố hay cưỡi không?"
“Là máy bay chứ” - Toàn sửa lại. Hóa ra trong mắt con mình, chiến tranh hóa thành câu chuyện cổ về một con chim sắt biết hát bằng tiếng động cơ. "Với lại, không giống chút nào" Toàn thay đổi tông giọng nghiêm nghị như thể đang cân nhắc chuyện hệ trọng lắm. Thực ra, anh chỉ cố chọc cho cu cậu cười, cái thằng nhỏ dạo này hay làm gì cũng giấu giấu giếm giếm, chẳng buồn khoe bố lấy một câu. Lắm lúc Toàn nghĩ thầm, chắc mấy năm đi công tác biền biệt xa nhà khiến anh thành người dưng trong thế giới của nhỏ. Nhưng khi thấy sắc mặt Thắng sầm sì, môi mím lại, đôi mày nhíu như sắp khóc, anh vội nuốt nốt nửa câu còn dở dang. Toàn đưa tay vuốt mái tóc tơ mềm của con, xoa nhẹ lên đầu nó như muốn gỡ đi nỗi hờn dỗi nhỏ nhoi.
"Máy bay của Thắng khéo đẹp hơn chứ. Vì nó có đèn, có thứ ánh sáng ấm áp để xua đi tăm tối hiu quạnh, hơn hết, nó được sinh ra từ niềm vui và sự cẩn trọng dưới bàn tay con trai của bố, và bay lên bằng những giấc mơ trong veo.”
“Vậy mai mốt lớn lên, Thắng sẽ học thật giỏi, làm riêng cho bố một con chim bằng...,à không, một chiếc máy bay thật đẹp, có đôi cánh sáng như trăng, để bố bay giữa tầng trời lộng gió, chẳng còn sợ đêm đen, chẳng còn lạnh lẽo nữa.” Bé Thắng hồn nhiên, quả quyết.
Toàn ẵm con trai bé bỏng trong tay, khuôn mặt nó như khuôn đúc từ anh mà ra, ánh mắt cũng cùng hướng về một lý tưởng xa xăm. "Vậy chúng ta đi phá cỗ thôi". Bóng hai cha con in dài trên con đường làng quen thuộc. Họ đi qua những ụ đất cũ nằm im lìm, cánh đồng trải dài trong sương bạc, những đụn rơm nằm chơ vơ giữa bờ cỏ, rặng tre nghiêng ngả xào xạc thở dài trong gió, khóm chuối đung đưa tàu lá và bóng dừa lả ngọn in lên nền trăng loang loáng.
“Có lẽ… lúc ấy cũng hòa bình rồi nhỉ.” Toàn nghĩ.
Bảy ngày phép ngắn ngủi trôi qua như cơn gió. Anh chẳng đi đâu xa, quanh quẩn trong sân nhà. Thời giờ dành cả cho gia đình, cho những buổi sáng dậy sớm, anh bế thằng bé con ra sân, chỉ cho nó xem con chuồn chuồn kim đậu trên cành ổi; cho những chiều ngồi bên hiên, chị Thu - vợ anh khâu lại mấy chiếc cúc áo bay, còn anh lặng nhìn, tay gác nhẹ lên vai nàng.
Đêm cuối, họ hàng chòm xóm ghé qua chào tạm biệt anh phi công tiêm kích — niềm tự hào của làng, của xứ. Mẹ anh tính quen lo xa, nghe tin mai con đi là lật đật nhóm bếp, luộc khoai, gói ít muối vừng, bảo để sáng ăn cho chắc dạ. Toàn ngồi bên ngọn đèn dầu. Chiếc ba-lô đã gọn ghẽ, chỉ còn chờ buộc lại quai. Vợ anh lặng lẽ khâu thêm mấy mũi cuối cùng vào cái túi áo đã sờn. Thằng cu Thắng nằm trong lòng mẹ, ngủ chập chờn, thỉnh thoảng trở mình gọi “ba…” trong mơ. Anh Toàn mỉm cười, bàn tay to bè vỗ nhẹ vào lưng con , rồi nhìn sang vợ. Ánh đèn hắt lên khuôn mặt chị Thu, gầy gò mà cứng cỏi, đôi mắt ngấn nước mà vẫn cố giấu, khiến lòng anh nghẹn lại, bởi lần này đi, không biết bao giờ mới lại được trở về. Ngoài hiên, tiếng dế gáy rỉ rả, đêm mỏng manh như tờ giấy.
Rạng sáng, khi tiếng còi xe đơn vị vang đầu ngõ là lúc nắng đầu ngày vàng như mật, phủ lên mái tóc những người phụ nữ mà anh thương yêu nhất. Con đường làng nhỏ dần dưới chân, mà trong tim anh, hình bóng mẹ già và hai mẹ con thằng Thắng cứ càng rõ, càng nhói.
Suốt nhiều ngày liền, bom Mỹ dội xuống Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc như trút giận. Ban ngày, khói đen phủ kín trời; ban đêm, ánh lửa từ những trận nổ hắt lên đỏ rực cả chân mây. Mặt đất rung chuyển, hầm hào chật người, và trong các sân bay dã chiến, những tổ bay của ta vẫn lặng lẽ chuẩn bị cho từng giờ cất cánh. Dưới hầm trú ẩn, các phi công trực chiến sẵn sàng nhận lệnh xuất kích bất cứ lúc nào ngay khi còi báo động vang lên, tổ đội chạy từ hầm ra đường băng, leo lên máy bay MIG-17 hoặc MIG-21 được kéo sẵn. Toàn bộ quá trình ấy chỉ diễn ra trong 1-2 phút để tránh bị Mỹ phát hiện bằng radar hoặc vệ tinh trinh sát.
Hai năm trôi qua kể từ ngày Toàn lên đường tham gia kháng chiến. Trong thời gian này, nhiều gia đình trong khu vực đã phải sơ tán đến các vùng an toàn hơn để tránh bom đạn. Những người còn ở lại vừa sản xuất vừa tham gia các hoạt động hỗ trợ chiến đấu. Họ vẫn giữ vững niềm tin vào chiến thắng và mong chờ ngày đất nước thống nhất. Toàn nhận được thư của vợ, lòng anh nhẹ bỗng khi hay tin mẹ và vợ con vẫn bình yên tại quê nhà yên ả, xa hẳn tiếng bom rền và khói lửa của chiến tranh. Anh ngắm nghía từng nét chữ viết tay nắn nót, nghiêng nghiêng của nàng, nét mực thẫm màu phai trên tờ giấy hơi ố vàng, trong đó có một dòng nguệch ngoạc của bé Thắng nói về món quà là bức ảnh trắng đen của chiếc máy bay, chụp bằng máy ảnh cơ học mà anh hứa sẽ tặng con khi chiến dịch kết thúc .
Mười hai ngày đêm " Điện Biên Phủ trên không" là một chuỗi những giờ phút căng thẳng đến tột cùng, là thử thách bản lĩnh, niềm tin và sự gan dạ của mỗi người lính. Bầu trời Hà Nội đêm ấy trở nên nặng trĩu và ảm đạm, như một tấm màn xám khổng lồ, bị xé toạc bởi những vệt lửa đỏ rực, bập bùng. Từ phía xa, những chiếc B-52 của Mỹ lao tới như những con quái vật sắt thép, mang theo cái chết và hủy diệt. Phía dưới, mặt đất im lìm, chỉ có tiếng gió rít qua khe cửa, như tiếng thở dài của đất mẹ.
Trong buồng lái chiếc MiG-21, Toàn siết chặt cần lái, mắt căng lên, nhìn chằm chằm vào mục tiêu. Cảm giác như thời gian ngừng trôi, chỉ còn lại anh và bầu trời, giữa không gian mênh mông ấy, anh như một hạt cát nhỏ bé, nhưng lại mang trong mình sức mạnh của cả dân tộc.
Đột nhiên, một tiếng nổ vang lên, chiếc B-52 phía trước bùng cháy, rơi xuống như một ngôi sao băng. Toàn không kịp vui mừng, vì ngay sau đó, một chiếc khác lao tới, đạn sáng rít qua, chớp lên trong đêm tối. Anh lách mình, né tránh, cảm giác như chỉ cần một giây lơ là, anh sẽ trở thành một vệt khói đen trong thiên hà rộng lớn . Nhưng Toàn không sợ hãi. Anh nhớ lời Bác Hồ căn dặn: “Dù đế quốc Mỹ lắm súng, nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay “bê” gì đi nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ, chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh. Mà đã đánh là nhất định thắng”. Phải rồi chúng ta nhất định thắng để bảo vệ tổ quốc, và những người ta yêu. Toàn kéo cần lái, chiếc MiG nghiêng cánh, lao vào giữa vùng sáng chớp của đạn phòng không. Dưới kia, Hà Nội đang chìm trong biển khói, trên đài chỉ huy, giọng đồng đội văng vẳng trong tai nghe: “Giữ độ cao, số hai! Giữ độ cao!”. Anh đáp ngắn gọn: “Đã rõ!”, rồi bật tăng lực, thân máy bay rung bần bật như con tuấn mã bị giật cương. "Pháo đài bay" B-52 hiện lên - khổng lồ, lạnh lùng, lừ lừ tiến tới. Toàn nheo mắt, tay anh khẽ run nhưng ánh nhìn không hề lay chuyển. “Bắn!” - một tiếng thét bật ra. Tên lửa rời bệ, lao đi như luồng sáng. Một vệt chớp lóa bừng, chiếc B-52 bốc cháy, đổ gục xuống màn đêm. Nhưng ngay khoảnh khắc ấy, một luồng đạn phản pháo quét ngang. Mảnh vỡ lao tới, xuyên qua buồng lái. Toàn nghe một tiếng nổ khô khốc, rồi thân thể anh bị dội ngược, ánh sáng loang ra trong mắt - trắng xóa, rồi mờ dần.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi bóng tối khép lại, qua khung kính mờ một vệt lửa dài cắt ngang trời, nhưng Toàn chỉ thấy có một vầng trăng sáng thanh khiết treo trên cao, anh nhắm chặt mắt, tận hưởng dòng hồi ức quý giá cuối cùng trước khi chiếc MiG chao nghiêng, biến thành một ngôi sao lửa rơi xuống lòng đêm tịch mịch.
***
"Trung vào nhà thắp hương cho ông bà nội đi con" - Thắng gọi đứa con của mình vào trong nhà. Hôm nay, cậu bé phấn khích lạ thường khi đoàn múa lân từ trên tỉnh về, trống chiêng dồn dập, cờ bay rợp đường làng. Lũ trẻ ùa ra reo hò, mắt tròn xoe nhìn con lân đủ màu sắc nhảy múa uyển chuyển, đầu lắc, đuôi vung, từng chiếc vảy lấp lánh phản chiếu dưới ánh trăng rằm lung linh. Nó bỏ chiếc đèn ngôi sao xuống, chạy vào trong gian thờ, nơi có đĩa trái cây tươi đủ màu: quýt vàng rực, chuối xanh mơn mởn, hồng đỏ căng mọng, cùng bánh nướng, bánh dẻo thơm lừng, và cả tấm giấy màu đỏ au được đặt ở đây rất lâu rồi, chắc có lẽ từ khi mà cậu chưa được sinh ra, dòng chữ vàng óng ánh, đóng dưới lớp khung gỗ sơn mài đen bóng: Bằng tốt nghiệp Kỹ sư Chế tạo và Lắp ráp Máy bay trường Học viện Hàng không Việt Nam (VAA)