Truyền Thuyết Thành An Dương Vương - Triệu Đà (P3) - Triệu Đà đại bại

Ảnh đại diện
Ngọc Nguyễn Tác giả uy tín

Vua Hùng liền lập tức chuẩn bị dụng cụ và vẽ trận pháp ra để cử hành nghi lễ, trời đất tối sầm lại, sấm chớp đùng đùng, gió lốc rít gào. Vua An Dương Vương đứng ở trung tâm trận pháp, cảm thấy một luồng năng lượng dâng trào trong từng thớ thịt. Tung bừa một đấm cũng khiến cái cây to gần đó gãy đôi. Sau đó suốt một tháng, vua Hùng cùng Lạc Long Quân chỉ dạy các pháp thuật cho vua An Dương Vương, vua An Dương Vương cũng chăm chỉ học hành không dám chểnh mảng. Sau một tháng, tuy không thể thần thông như vua Hùng và Lạc Long Quân nhưng vua An Dương Vương cũng có thể lấy một địch một trăm vô cùng dễ dàng. 

“Chúc mừng, giờ cậu đã chính thức trở thành một vị vua rồi đó!” Vua Hùng vuốt râu cười khà rồi cùng vua An Dương Vương quay trở lại Phong Châu.

Trên đường đi về, vua An Dương Vương có hỏi vua Hùng:

“Sao ngài có pháp thuật cao cường vậy mà không ra mặt lúc đấu với quân Tần?”

“Cậu nghĩ ta biết thì họ không biết sao? Sẽ thế nào nếu quy mô cuộc chiến trở thành chiến tranh giữa những kẻ biết phép thuật? Lại đấu ở đất của chúng ta nữa, cậu nghĩ dân chúng sẽ ra sao?”

“Ngài nói cũng phải… Là do ta nông cạn, chỉ mong bị thiệt hại ít nhất có thể”

“Ha ha ha. Suy nghĩ đó không có gì sai cả. Nhưng cậu phải nhớ, cái gì cũng phải lấy nhân dân làm gốc, đến cả chiến tranh cũng phải nhờ nhân dân, đất nước phát triển cũng nhờ nhân dân. Vậy nên nhân dân mới chính là đất nước. Ha ha ha!”

Suốt một tháng ấy, ngoài ba người họ ra, còn có sự xuất hiện của một người nữa là Thục Mô. Thục Mô đã bám theo ngay từ đầu. Khi thấy vua An Dương Vương cùng vua Hùng cưỡi mây bay đi, Thục Mô cũng vội vã thúc ngựa chạy theo. Tuy phải mất một ngày đường mới tới nơi, không nghe rõ được câu chuyện, nhưng nhìn vào quá trình, Thục Mô cũng đoán rằng trận pháp được vẽ ra dưới đất vô cùng quan trọng. Vậy nên trong thời gian một tháng khi vua An Dương Vương học phép thuật, Thục Mô cũng cố hết sức để ghi nhớ trận pháp. Sau khi vua Hùng cùng vua An Dương Vương rời đi, Thục Mô cũng nhanh chóng quất ngựa trở về.

Sau khi vua An Dương Vương trở về, không thấy Thục Mô đâu, hỏi mọi người ai cũng bảo ngài Thục Mô đã rời đi có việc cách đây một tháng thì vô cùng lấy làm lạ. Nhưng Thục Mô cũng đã trở về không lâu sau đó, vậy nên ngài cũng tạm gác mối bận tâm này mà tập trung vào việc rời thành.

Sau khi rời đô về Phong Khê, vua An Dương Vương không dám chậm trễ mà lập tức cho ổn định làng mạc và gấp rút xây thành lũy. Nhưng khổ nỗi, xây mãi, xây mãi mà chẳng thể nào vừa ý. Dù có cố xây tường thành cao hơn, dày hơn, hay cả tháp canh xung quanh, nhưng dù có cố thế nào, vua An Dương Vương cũng cảm thấy không thể nào chống chọi được với cuộc tấn công của hơn năm mươi vạn quân Tần. Vậy nên suốt quãng thời gian đó, thành cứ được xây lên lại bị lệnh cho phá bỏ. Sự lo lắng, tức giận và căng thẳng in rõ trên nét mặt của vua An Dương Vương.

Một hôm nọ, vua An Dương Vương đang vò đầu bứt tai trong phòng để vẽ các cấu trúc tòa thành sao cho phù hợp thì Thục Mô tiến vào.

“Mi đi dạo chút chứ?”

Vua An Dương Vương gật đầu đồng ý. 

Hai người tản bộ quanh khu thành đang xây dựng. Thục Mô nói:

“Mi dạo này có vẻ căng thẳng quá nhỉ?”

“Không sao… Em quen rồi”

“Nhưng người dân thì không thế đâu” Thục Mô chỉ về phía những thanh niên trai tráng đang phải nằm dựa vào đống đổ nát mà ngủ.

“Nhưng em còn biết làm gì nữa chứ! Chúng ta có thể sẽ phải chống lại năm mươi vạn! Năm mươi vạn quân Tần có thể tấn công bất cứ lúc nào đấy!” Vua An Dương Vương nắm lấy cổ áo Thục Mô hét lớn.

“Vả lại… Chính em đã đưa ra ý kiến rời thành về đây… Nếu em không thể bảo vệ họ… Thì em đâu có xứng làm vua chứ…”

Thục Mô vỗ vai vua An Dương Vương, dùng ánh mắt đầy hiền từ nhìn ngài:

“Bảo vệ đất nước đâu phải trách nhiệm của mình mi. Mi nhớ đất nước là gì chứ?”

“Là nhân dân…”

“Vậy mi đang làm gì đất nước của mình vậy?”

“Nhưng…”

“Tau có câu trả lời cho vấn đề của mi đấy. Đi theo tau!” Thục Mô cầm chặt vai vua An Dương Vương, mắt sáng rỡ.

Sau đó Thục Mô kéo theo vua An Dương Vương chạy tới phía Nam của tòa thành đang xây. Ở đó có rất nhiều dấu chân gà ngổn ngang khắp nơi.

“Anh… Dẫn em ra đây chỉ để nhìn chỗ dấu chân gà này thôi à?” Vua An Dương Vương thắc mắc.

“Không chỉ là dấu chân gà bình thường đâu! Mi nhìn xem” Nói rồi Thục Mô lại kéo vua An Dương Vương đi dọc theo vết chân gà, vừa đi vừa nói:

“Dạo này mi cứ nhốt mình trong phòng suốt nên không biết. Gần đây cứ đến tầm canh một, là sẽ có tiếng gà gáy rất quái lạ”

“Canh một? Sao lại có một con gà gáy vào canh một được?”

“Phải! Đó là vấn đề! Vậy mà không ai thèm để ý cả”

“Và… Anh đã đi tìm con gà đó?”

“Chính xác! Tau đã lần mò theo tiếng gáy của con gà. Thì thấy đó là một con gà trắng, trông rất uy mãnh và đáng sợ lạ thường”

“...”

“Nhưng chưa hết đâu nhé. Khi tau vừa nhìn vào mắt con gà, tau tự dưng bị choáng váng. Lúc tỉnh lại thì con gà đã biến đâu mất.”

Vua An Dương Vương chăm Chủ lắng nghe. Thục Mô nói tiếp:

“Hôm sau đó, tau quyết định ra đó rình trước, núp một chỗ quan sát con gà. Mà nó hình như phát hiện ra tau hay sao á. Sau khi gáy ba tiếng thì nó nhảy xuống khỏi đống đổ nát và bắt đầu bước đi. Tau vội vã chạy theo nhưng tau đến gần cái là tau lại bị choáng và con gà biến mất. Thế là hôm sau và hôm sau đó nữa, tau tiếp tục theo dõi con gà. Tau nhận ra là nếu tau cách con gà tầm một thước là sẽ bị choáng, vậy nên tau cố gắng giữ khoảng cách với nó. Sau một thời gian theo dõi thì tới hôm qua, tau không thấy con gà nữa. Tau khó hiểu lắm. Rồi tau đột nhiên để ý vệt chân gà thấy có vẻ có quy luật nào đó. Tau vẽ lại thì nhìn vết chân gà đang bao bọc một khoảng đất có vẻ to bằng cỡ một tòa thành. Mi xem, xây tòa thành theo hình dáng như này ổn không?”

Thục Mô đem bản vẽ ra cho vua An Dương Vương xem. Vua An Dương Vương lập tức thốt lên:

“Chính nó! Nó giống hệt với trận…”

“Hử? Sao cơ?”

“À không… Không có gì. Ý em là đây chính xác là cấu trúc thành em cần, khả năng phòng thủ vô cùng chặt chẽ. Nhưng vẫn còn chút gì đó… Em sẽ thử vừa đi dạo vừa nghĩ xem sao…” Vua An Dương Vương vội vã rão bước, vừa đi vừa trầm ngâm suy nghĩ.

“Ê! Từ từ… Đúng là… Mi quá nghiêm túc trong mọi chuyện mà…” Thục Mô mỉm cười nhìn bóng lưng vua An Dương Vương đang tiến nhanh về phía trước.

“Cấu trúc thành như này rất tốt rồi, nhưng nếu lỡ quân địch đánh mạnh xuyên thủng tường thành, thì rất khó để những vị trí khác tới hỗ trợ…” Vua An Dương Vương trầm ngâm suy nghĩ.

Đột nhiên, một con rùa lớn bò ngang qua trước mặt vua An Dương Vương. Vua An Dương Vương giật mình phát giác.

“Rùa… Chẳng phải rùa rất giỏi phòng thủ sao? Tại sao lại vậy nhỉ? Do cái mai hình bát úp của nó sao? Cũng có lý… Vì mai cong nên tấn công thẳng vào lực sẽ bị chệch ra… Cong sao? Phải rồi! Chính là nó! Đâu nhất thiết phải xây thành bằng phẳng? Nếu chúng ta xây thành theo hình mai rùa, quân địch sẽ phải tốn rất nhiều công sức để đánh lên, trong khi đó quân đội của ta ở trên có thể nhanh chóng xuống dưới để hỗ trợ! Đúng rồi! Còn có thể chia quanh thành thành những ô phòng thủ và đào hào nhỏ xung quanh như mắt mai rùa và dẫn nước vào, như vậy nếu địch muốn tấn công thì chúng chỉ có thể chọn một vài con đường cụ thể không bị đào hào! Một cấu trúc dễ thủ khó công! Đúng là nó rồi!”

Sau đó, vua An Dương Vương vui vẻ chạy về để chuẩn bị thông báo mọi người kế hoạch xây thành. Đến khi vua An Dương Vương đã chạy khuất dạng, con gà trống trắng mới bước tới cạnh con rùa ban nãy. Con rùa và con gà trống trắng trong phút chốc liền hóa thành ngài Kinh Dương Vương và ngài Lạc Long Quân. Hai người nhìn về phía vua An Dương rồi nhìn nhau, gật đầu hài lòng và biến mất trong làn khói mờ ảo.

Một thời gian sau, vua An Dương Vương đã cùng với mọi người xây dựng xong thành Cổ Loa, một tòa thành không chỉ nguy nga, đồ sộ mà còn khiến người chiêm ngưỡng phải thốt lên thán phục không thôi. Không chỉ phòng thủ mà ngay cả việc di chuyển đến các vị trí xung quanh thành cũng vô cùng tiện lợi. Nhân ngày thành được xây xong, vua An Dương Vương không chỉ đặt tên thành là Cổ Loa mà còn ban cho Thục Mô cái tên Cao Lỗ. Thục Mô có thể coi là người đầu tiên không phải vua được ban cho danh hiệu, vậy nên có thể hiểu cảm giác tự hào của ông dâng lên lúc ấy dạt dào ra sao. Sau khi thành Cổ Loa được xây dựng thì nhân dân cũng chẳng còn ai nghe thấy tiếng con gà lôi màu trắng ấy nữa, cho rằng có lẽ là do nó mà thành mới xây mãi không xong. Họ kháo nhau con gà đó là Bạch Kê thành tinh tên là Ma Lôi, tức hồn ma con gà lôi, còn con rùa hôm nọ xuất hiện chính là giúp vua diệt trừ yêu ma, vậy nên nó cũng biến mất sau khi con gà bị thanh trừng.

Ngay khi thành vừa xây xong, vua An Dương Vương vẫn chưa thực sự hài lòng với khả năng phòng thủ. Ngài lập tức cùng Cao Lỗ ngày đêm bàn bạc chế tạo ra một thứ vũ khí để có thể triệt hạ hàng trăm ngàn địch cùng lúc, để đến khi chúng tiếp cận được thành thì cũng chỉ còn lác đác vài mống. Nhưng lại một lần nữa, việc chế tạo nỏ này cũng gặp rất nhiều khó khăn. Để đánh địch từ xa, tốt nhất là dùng nỏ hoặc cung tên, lao được bỏ qua vì mỗi người chỉ phóng được một chiếc, vả lại nếu xét khoảng cách cũng không thể xa được bằng. Nhưng vấn đề là, nếu muốn uy lực mạnh, thì thời gian căng dây phải lâu, vả lại tên cũng sẽ cần rất nặng, thành ra bắn được ít. Nếu muốn bắn nhiều thì uy lực lại giảm thấp. Nếu muốn vừa nhanh vừa mạnh thì sẽ bị đứt dây. Việc chế tạo nỏ dường như còn khó khăn hơn thiết kế thành. Nhiều ngày liền vua An Dương Vương cùng Cao Lỗ ăn uống và sinh hoạt ngay trong phòng, đôi khi ra ngoài hỏi thăm người dân rồi lại quay trở về phòng ngay lập tức nghiên cứu. Thậm chí vua An Dương Vương cùng Cao Lỗ nhiều đêm còn gục vào nhau mà ngủ quên.

Một hôm nọ…

Cao Lỗ vò đầu bứt tai, nằm sõng soài ra sàn:

“Sao khó quá vậy nè!”

“Ha… Thôi anh cố gắng thêm một thời gian nữa… Em cảm giác là sắp tìm ra rồi”

“Mà nè, ban đầu tau chỉ vẽ lòng vòng mấy đường thôi. Sao mi nghĩ ra được cấu trúc sau cùng thế?”

“À…”

Cao Lỗ bật dậy, bò sát tới vua An Dương Vương:

“Có phải mi cũng được ai đó chỉ đúng không?”

“Ha… Ha… Đúng là em được chỉ, nhưng không phải người, mà là một con rùa. Lúc em đang nghĩ thì một con rùa đi ngang qua. Vậy nên…”

“Ài… Tưởng là sẽ có một vị cao nhân nào tới giúp chứ… Vậy là không nhờ được rồi. Mà sao tự dưng lại có con rùa đi qua nhỉ? Rùa à… Rùa… A! Phải rồi! Là rùa!”

“Hả? Dạ?”

“Nếu chúng ta chế tạo ra mũi tên được xoáy tròn và vót nhọn giống như móng rùa thì sao? Và chúng ta có thể tạo ra năm mũi tên với độ dài ngắn khác nhau, không nhất thiết phải dài ngang nhau mà. Trông chiếc nỏ sẽ giống như chân con rùa ấy!”

“Phải rồi! Và chúng ta có thể tạo những cái báng nỏ lớn, rồi để nhiều mũi tên nhỏ hơn vào! Vừa dễ bắn vừa uy lực mạnh! Nó giống như việc nhân dân đoàn kết chống giặc vậy! Chính là đạo lý góp gió thành bão!”

“Phải! Chính là nó! Tau và mi quả là thiên tài!”

“Vậy thì hãy gọi nó là nỏ Liên Châu đi! Vì nhân dân quý giá như những viên hạt châu vậy, phải có họ đồng lòng thì mới có thể đánh đuổi quân giặc!”

“Quyết định vậy đi!”

Vua An Dương Vương và Thục Lỗ nhảy cẫng lên, ôm lấy nhau ăn mừng. 

Không lâu sau đó, việc chế tạo nỏ thần hàng loạt đã được hoàn thành. Người dân ai nấy đều vô cùng vui mừng, họ không ngớt lời ca thán về vị vua An Dương Vương anh minh và tướng Cao Lỗ tài ba vì hai sản phẩm nỏ Liên Châu cùng thành Cổ Loa. 

Quả đúng như vua An Dương Vương lo lắng, chỉ ba năm sau khi thất bại lần đầu, cũng là hai năm sau khi thành Cổ Loa được xây lên, vua Tần lại một lần nữa phái quân đi tiến đánh Âu Lạc, mà người cầm quân khi đó của nhà Tần chính là Triệu Đà.

Cùng với Triệu Đà, lần này vua Tần còn phái thêm một tướng lĩnh nữa là Nhâm Ngao cùng đánh tiến Nam Việt. Nhưng Triệu Đà là một kẻ khệnh khạng, vóc dáng to lớn, giọng nói như sấm rền, ánh mắt như mãnh thú, cảm thấy việc Đồ Thư bị đại bại và chết trong tay một dân tộc phía Nam nhỏ bé thì lấy làm coi thường. Hắn cho rằng chỉ cần một mình hắn cũng đủ để chiếm được Âu Lạc. Vậy nên hắn mang theo ba mươi vạn quân, bảo Nhâm Ngao hãy cứ ở lại Nam Hải mà đợi tin thắng trận trở về. 

Trên đường Triệu Đà cùng quân lính thúc ngựa tiến về phương Nam, trong lúc họ dựng lều để nghỉ, có một cụ già tới xin bái kiến để dâng lễ vật lên cho Triệu Đà. Khi được vào gặp mặt, cụ già mang ra cho Triệu Đà ba chiếc rương, chiếc rương thứ nhất, đựng toàn là những hạt giống lạ mà Triệu Đà chưa thấy bao giờ, chiếc rương thứ hai gồm vô số ngọc ngà châu báu, đủ thứ của lạ trên đời đều có trong chiếc rương này, còn chiếc rương thứ ba thì lại trống rỗng. Điều ấy khiến Triệu Đà khó hiểu, rõ ràng với thành tâm trong hai chiếc rương đầu thì có thể thấy ông lão không hề có ý đinh chọc giận hay coi thường Triệu Đà, vậy tại sao lại phải đưa thêm một chiếc rương không có gì?

Ông lão vuốt râu cười:

“Có phải ngài đang cảm thấy rất khó hiểu phải không? Rằng tại sao ta lại mang tới thêm một chiếc rương rỗng để dâng cho ngài. Ta nghe nói ngài tính tiến đánh Âu Lạc. Nay ta mang tới hai chiếc rương này cống nộp cho ngài. Còn cái rương cuối rỗng với ý mong ngài biết đủ, dừng lại với hai chiếc rương này là được, đừng cố chất đầy mọi thứ kẻo ngựa của ngài sẽ chẳng thể mang nổi. Dẫn tới việc tự hại bản thân”

“Ha ha ha!” Triệu Đà cười lớn rồi nói “Cám ơn ý của ông! Nhưng ta chính là muốn nhiều hơn nữa. Bay đâu! Mang lương thực chất đầy chiếc rương rỗng này, rồi mang cả ba chất lên xe cho ta. Lão yên tâm, ngựa không chở được thì còn có xe, xe không chở được thì chia ra nhiều xe, làm sao mà không hết!”

“Hài… Thôi được, vậy lão phu xin cáo từ”

“Đi thong thả!”

Sau đó đoàn của Triệu Đà tiếp tục Nam tiến. Nhưng kỳ lạ là ba chiếc rương Triệu Đà được tặng ban nãy càng lúc càng nặng, cho dù Triệu Đà cho quân chia đồ trong ba chiếc rương ra nhiều rương nhỏ hơn, nhưng những chiếc rương nhỏ hơn cũng đều trở nên nặng dần theo thời gian. Cuối cùng, binh sĩ không chịu nổi nữa mà hất thẳng đống rương ấy xuống sông. Triệu Đà cho bắt những kẻ làm việc đó và xử trảm ngay tại chỗ, nhưng hắn ta lại không hề đưa ra một mệnh lệnh nào thu hồi lại đống rương bị đổ đi. Đoàn quân cứ thế tiếp tục tiến về phía trước, tới khi ấy thì việc hàng hóa nặng lên cũng không còn nữa. Tuy cảm thấy việc này thật quỷ dị, nhưng Triệu Đà với tâm chí hùng hổ muốn xâm chiếm nước Âu Lạc để lập công nên cũng không suy nghĩ gì quá nhiều, nhanh chóng quên đi sự việc ấy.

Triệu Đà tuy cười cợt về thảm bại của Đồ Thư, nhưng hắn không phải là không chuẩn bị gì đề phòng. Trong đống vật dụng mang theo, Triệu Đà còn cẩn thận cho đem cả chục thùng dầu hỏa để nếu có phải vào rừng chiến đấu thì cũng có thể sẵn sàng đốt trụi cả cánh rừng. Nhưng hắn lại không tính được một điều, hắn sẽ phải thảm bại ngay trên chiến trường bằng phẳng không chút cây cối nào. Chúng ngạo mạn và hả hê đốt cháy bất cứ cánh rừng nào chúng đi qua, chỉ chưa đầy một tháng đã tiến được tới thành Cổ Loa nơi An Dương Vương đóng đô. Nhìn thấy thành Cổ Loa, Triệu Đà cười khẩy, cho rằng đó chỉ như một trò lố bịch trước mặt quân hùng tướng mạnh của hắn, hắn ra lệnh toàn quân lao lên không chút do dự. Nhưng ngay khi quân địch lao tới, quân của An Dương Vương lấy ra hàng trăm chiếc nỏ to nhỏ đủ loại. Truyền thuyết và sách vở nói nỏ Liên Châu to nhất có tới năm dây, bắn ngọn lao đi xa cả trăm mét, tầm sát thương có thể xuyên thủng áo giáp da trâu hoặc miếng hộ tâm bằng đồng dày sáu mươi mét. Kẻ địch tiến tới bị tên bắn xuyên đầu như những chiếc xiên thịt. Áo giáp cũng chẳng tác dụng mà ngựa chạy thì sao so được với tốc độ tên bắn? Thậm chí, An Dương Vương còn ra lệnh châm lửa vào tên mà bắn, tên lửa bắn trúng thùng dầu, cả một vùng bốc cháy không ngớt. Quân sĩ cũng vì thế mà tán loạn như ong vỡ tổ, những kẻ phía sau thì người ngựa giẫm nhau mà chạy, những kẻ phía trước biết không còn đường lui nên liều mình đánh lên trước. Nhưng nào đâu có được. Những kẻ liều mình lao lên trước bị nhân dân trốn sẵn dưới hào dùng lao mà đâm chết bất đắc kỳ tử chẳng kịp phản kháng.

Tương truyền, gần ba mươi vạn quân Triệu Đà khí thế áp đảo cưỡi ngựa lao tới, tiếng hò cùng tiếng vó ngựa khiến cả một vùng trời rung chuyển. Nhưng chẳng mấy chốc, tiếng hò đã chuyển thành tiếng hét, tiếng vó ngựa đã thành tiếng giẫm đạp nhau mà chết. Triệu Đà cũng hoảng hồn bỏ thúc ngựa bỏ chạy. Triệu Đà cùng tàn quân lúc ấy chạy mặt cắt không còn một giọt máu, chỉ biết thúc ngựa mà chạy, ngựa không chạy nổi thì bỏ ngựa chạy tiếp, tuyệt không dám nhìn về phía sau. Sau một khoảng thời gian, quân và ngựa của Triệu Đà chạy được tới làng Đường Xâm, tỉnh Thái Bình, tới lúc này thì nhân khẩu không còn tới quá năm mươi người, hoàn toàn chẳng thể coi là một nhóm người tới từ Trung Quốc. Chúng thậm chí còn chẳng dám ra mặt, chỉ dám ở trong rừng hái quả dại, uống nước suối mà sống qua ngày.

huyền sử truyền thuyết huyền huyễn cổ tích
Còn lại: 5