Truyền Thuyết Thành An Dương Vương - Triệu Đà (Phần Cuối) - Triệu Đà lên ngôi, anh hùng, kẻ hèn mọn hay một vị vua nhân hậu?

Ảnh đại diện
Ngọc Nguyễn Tác giả uy tín

Nhưng với cái thể hình của Triệu Đà cùng đám quân sĩ của hắn thì ăn quả dại đủ sống được bao lâu? Triệu Đà trong lúc ấy đã sức cùng lực kiệt, đi đứng loạng choạng, chẳng còn đủ sức để duy trì tâm trí tỉnh táo đã bị ngất bên bờ sông. Khi tỉnh dậy, hắn ta thấy bản thân đang nằm trên một chiếc giường cỏ. Một cô gái thùy mị nết na bước vào. Triệu Đà thấy có người phương Nam bước vào thì giật mình lùi lại. Nhưng cô gái đã tiến tới chỗ hắn với nụ cười thân cô. Cô đưa cho hắn bát cháo hoa nóng hổi thơm phức.

Triệu Đà ban đầu còn rụt rè đề phòng, nhưng ngay khi thử một miếng cháo hoa ngọt lừng, hắn sì sụp một hơi hết sạch. Bát cháo ngọt ngào ấy như khiến cơ thể khô héo của Triệu Đà phục hồi sinh khí. Hắn  cầm chặt bát cháo, hai tay run lên không ngừng:

“Tại… Tại sao… Tại sao nàng lại cứu ta?”

“Chẳng phải giúp đỡ người gặp khó khăn là chuyện nên làm sao?”

“Nhưng… Ta là giặc tới để đất của nàng và những người khác đó!”

“Thật sao?” Cô gái hoảng hốt nhưng rồi lại mỉm cười hiền dịu “Nhưng chẳng phải ngài cũng là người sao? Là người thì cần ăn, cần uống như nhau thôi. Đã là cứu người thì đâu có phân biệt đâu”

“...” Triệu Đà im lặng trầm ngâm. Nhưng rồi như sực nhớ ra điều gì, Triệu Đà cảm tạ cô gái và xin phép rời đi trước.

Sau đó hắn cùng đám tàn quân nhanh chóng gấp rút trở về. Quân của hắn tuy chẳng hiểu lý do nhưng do là mệnh lệnh nên cũng lò cò chạy, nhưng sức tàn lực kiệt thì chạy sao mà nhanh, mà xa được. Quân của hắn chạy mới được độ hai, ba lý thì ngã sấp xuống chẳng chạy nổi nữa. Triệu Đà tóm cổ hét lớn bắt đám quân của hắn dậy chạy tiếp thì kẻ nào kẻ nấy khóc lóc kêu xin. May sao có mấy con ngựa được buộc gần đó, Triệu Đà cùng quân của hắn bèn trộm ngựa mà chạy về.

Ngay khi chạy về, hắn lập tức chạy vào gặp mặt Nhâm Ngao:

“Nhâm Ngao!”

“Chuyện gì vậy? Nhìn ngươi nhếch nhác quá, chẳng lẽ cũng thua trận giống như Đồ Thư rồi?”

“Phải… Nhưng chúng ta không nên tiếp tục tiến quân mà nên đóng quân ở đây!” Triệu Đà bóp chặt hai bên vai Nhâm Ngao, ánh mắt vô cùng nghiêm túc.

“Nhưng chuyện là sao? Ngươi phải giải thích rõ chứ? Quân địch mạnh thì chúng ta xin thêm quân là được mà?”

Triệu Đà khoanh hai chân ngồi phịch xuống đất:

“Ta biết ngươi sẽ nói vậy mà. Nhưng nghe này, ta đã mang đi gần ba mươi vạn quân, và vẫn bị diệt sạch. Ngươi không thắc mắc tại sao ư?”

“...”

“Chính vì bọn chúng có một cái nỏ thần! Cái nỏ đó một lần bắn được cả nghìn phát. Thậm chí nó còn có thể bắn mãi không dừng! Nếu muốn hạ được chúng phải cần tới bảy mươi vạn quân tinh nhuệ! Ngươi nghĩ Tần vương sẽ chấp thuận sao?”

“Thật sự cần tới mức đó sao?”

“Phải! Ta đâu có lý do gì để dọa ngươi chứ? Ta dù muốn chiếm công thì cũng chẳng thể với đám tàn quân này đúng không?”

“Ngươi nói cũng đúng… Nhưng đây là vùng trọng yếu. Để ta gửi thư bẩm báo lại Tần vương”

Triệu Đà tính can ngăn nhưng sợ làm như vậy sẽ bị nghi ngờ nên lại thôi. Sau đó hắn cáo lui về nhà nghỉ ngơi. Quả đúng như Triệu Đà suy đoán, trong thời gian chờ đợi, tên Nhâm Ngao cũng đã rục rịch chuẩn bị cho quân đào vô số các đường hầm để đánh phục kích Âu Lạc, nếu hắn về muộn một ngày thôi thì e là đã không kịp rồi.

Trong khoảng thời gian chờ đợi phản hồi từ vua, Nhâm Ngao vẫn không ngừng cử lính đi do thám tình hình nước Âu Lạc. Nhưng Triệu Đà nắm rõ việc đó trong lòng bàn tay, cứ kẻ nào được Nhâm Ngao phái đi do thám, Triệu Đà sẽ trước hết đe dọa, thị uy kẻ đó một lượt, đến khi thấy đối phương đã sợ hãi xanh mặt, Triệu Đà lại lấy ra sản vật của Âu Lạc, rồi thuyết phục tên lính do thám rằng không nên tiến đánh Âu Lạc, phải báo cáo thật đáng sợ để Nhâm Ngao do dự, có như vậy thì hắn mới có thể tiếp tục mang về những sản vật như này. Và tất nhiên, Triệu Đà nói là làm, hàng ngày hắn đều thúc ngựa cả vài chục lý đi đi về về giữa thủ phủ Long Xuyên và ngôi làng của cô gái gặp khi trước, hắn đem tiền bạc của bản thân ra để đổi lấy các sản vật địa phương mang về mua chuộc những tên lính. Nhâm Ngao thì chẳng nghi ngờ gì, chỉ nghĩ rằng Triệu Đà muốn đi đây đó cho khuây khỏa nỗi thất bại, dù sao hắn cũng là một kẻ có cái tôi cao.

Triệu Đà dù cố gắng trì hoãn nhưng trong lòng hắn không một phút nào yên, hắn chỉ sợ đến khi Tần vương thực sự gửi quân viện trợ tới, thì hắn không còn lý do nào để cản bước được nữa.

Nhưng người có lòng thì trời cũng thuận ý, năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng qua đời, Tần Nhị Thế nối ngôi nhưng rồi gặp phải chiến tranh Hán - Sở. Vì lý đó, nhà Tần không thể viện trợ thêm quân đội cho Nhâm Ngao được. Nhâm Ngao nhận được hung tin thì loạng choạng ngã khụy xuống đất. Hắn đem chuyện này nói với Triệu Đà. Triệu Đà hay tin, tuy ngoài mặt thì tỏ ra tức giận và không cam chịu nhưng trong lòng lại vô cùng mừng rỡ. Triệu Đà và Nhâm Ngao đồng ý với nhau, dù sao tiến không được, mà lui cũng gặp loạn chiến tranh, vậy thôi thì hãy cứ đóng quân thủ thế ở đây, chờ đợi tình hình xem sao.

Chỉ sau đó hai năm, Nhâm Ngao không hiểu vì lý do gì đột nhiên bị bệnh nặng, có người thì cho rằng Triệu Đà đã cố tình bỏ thuốc độc vào đồ ăn thức uống, có người lại cho rằng không quen với khí hậu phương Nam, nhưng dù vì lý do gì, Nhâm Ngao cuối cùng vẫn chết vào năm 208 TCN. Trước khi chết, Nhâm Ngao cho gọi Triệu Đà đến mà nói:

“Tôi nghe bọn Trần Thắng làm loạn. Nhà Tần làm điều vô đạo, thiên hạ khổ cực. Bọn Hạng Vũ, Lưu Quý, Trần Thắng, Ngô Quảng đều dấy binh tụ tập quân sĩ, tranh giành thiên hạ. Đất nước loạn lạc chưa biết lúc nao yên. Những người hào kiệt phản Tần đều đứng lên cả. Nam Hải ở nơi xa lánh, tôi sợ quân giặc xâm lấn đến đây, nên định dấy binh chặn đứt con đường mới để tự phòng bị, đợi Chủ hầu có sự thay đổi. Nay gặp lúc ốm nặng. Đất Phiên Ngang nhân thế núi hiểm trở, đất Nam Hải Đông Tây rộng vài ngàn dặm, lại có người Hán giúp, cũng là nơi Chủ chốt của một châu có thể lập thành nước được. Các trưởng lại trong quận không ai có thể cùng bàn việc ấy nên tôi mời ông đến để nói.”

Sau đó, Nhâm Ngao liền làm chiếu để truyền lại ngôi quan úy quận Nam Hải cho Triệu Đà và ra đi một khoảng thời gian không lâu sau đó.

Sau khi Nhâm Ngao qua đời, Triệu Đà mới bắt đầu kế hoạch thôn tín của mình. Hắn cho dùng hình tất cả những kẻ chống đối muốn đánh chiếm Âu Lạc, chỉ giữ lại những kẻ đã bị mua chuộc và đồng ý sống hòa thuận với tộc người nơi đây. Sau khi đã bình ổn được quân doanh, Triệu Đà mới sai quân cùng mình mang cống phẩm tới làng Đường Xâm để cầu hôn cô gái đã cứu mình khi xưa. Thông tin về người vợ ấy của Triệu Đà không có nhiều, chỉ biết bà là một người con gái họ Trình tên Lan, sống tại nơi đây, vẻ ngoài đoan trang, tính tình hiền dịu, lương thiện. 

Lễ cưới được tổ chức linh đình, lính tráng được thoải mái gặp gỡ dân làng và ăn mừng tưng bừng, họ ôm vai bá cổ, cùng nhau uống rượu hát ca, vào khoảnh khắc ấy, Triệu Đà nhận ra, không hề có một sự khác biệt nào giữa hai bên cả. Cả dân Âu Lạc và quân của Triệu Đà đều là những con người mong muốn được sống một cuộc sống hạnh phúc, họ mưu cầu tự do, không muốn phải làm hại người khác.

Vậy nên Đà bảo quân đội cùng hắn xin được trở thành một phần của đất nước Âu Lạc. Đích thân hắn diện kiến và bẩm báo điều này với vua An Dương Vương. Vua An Dương Vương thấy vậy thì vô cùng mừng rỡ, chẳng những có thêm một lực lượng binh lính hùng hậu, mà ngài giờ sẽ không cần phải lo lắng khi quân Triệu Đà ở ngay sát nữa. Nhưng Cao Lỗ không đồng tình.

Buổi tối đó, khi vua An Dương Vương cùng Cao Lỗ đi dạo:

“Sao mi lại đồng ý!”

“Nhưng em thấy việc đó tốt mà, nhân dân sẽ không phải lo chiến tranh nữa. Giờ quân đội của Đà cũng có thể giúp trấn thủ phương Bắc nữa.”

“Nhưng mi có nghĩ đó là kế hoạch để mi buông lỏng cảnh giác không?”

“Không. Em tin tưởng hắn ta. Nhìn vào mắt hắn em thấy hắn hoàn toàn nói sự thật”

“Mi quá tin người rồi!”

Cuối cùng, Cao Lỗ thấy không thể thuyết phục được vua An Dương Vương suy nghĩ lại, ông đành bèn bảo cho đám giai nhân, tuyệt đối không được ho he gì cho Triệu Đà về cấu tạo chiếc nỏ thần hay cấu trúc của thành Cổ Loa, hắn mà có muốn đi dạo quanh thành thì cứ dẫn đi lòng vòng để hắn không thể nhớ được đường đi.

Tuy đã đề phòng là vậy, nhưng người tính không bằng trời tính, chỉ bốn năm sau khi Triệu Đà cùng quân đội của hắn đồng ý trở thành con dân của nước Âu Lạc, vua An Dương Vương tuyên bố truyền ngôi cho Triệu Đà trước sự phản đối mạnh mẽ và xôn xao của tất cả mọi người.

“Mi nghĩ cái quái gì vậy? Không những cho hắn làm dân nước ta, giờ còn dâng cả nước ta cho hắn nữa! Mi bị điên sao?”

“Phải đó. Tuy tên Triệu Đà kia” Mán Chủ chỉ thẳng mặt Triệu Đà, hắn nói tiếp: “Hắn tuy có to cao hơn ngài nhưng nếu so với ta thì ta thổi cái là bay”

“Chúng tôi thật sự cần một lời giải thích hợp lý thưa đức vua” Miêu Chủ chắp tay cung kính.

Vua An Dương Vương ôn tồn giải thích:

“Phải, đúng là Đà không thể mạnh bằng Mán chủ, không thể một mình diệt cả một đội quân trong đêm như Miêu chủ, càng chưa chắc đã có thao lược bằng người anh trai Cao Lỗ của ta đây. Nhưng liệu nếu là ta, so với các vị, ta cũng có bằng không?”

Mọi người đều im lặng không biết nói gì.

“Các vị cho rằng, một vị vua cần có phẩm chất gì? Nếu không phải mạnh mẽ, tài giỏi hay thao lược xuất chúng?”

Vẫn không một ai trả lời.

“Ta đi đến được bây giờ, không phải vì ta giỏi hay mạnh mẽ hơn người, mà là nhờ được các vị giúp sức. Đến cái thành Cổ Loa, nỏ Liên Châu còn phải nhờ người dân xây, nhờ người anh Cao Lỗ hỗ trợ thiết kế. Thì thử hỏi, một mình ta làm được gì?”

Ngừng một lát, vua An Dương Vương nói tiếp:

“Chẳng phải các vị theo ta, giúp ta, thần phục ta, vì ta có một thứ duy nhất, là tình cảm chân thành dành cho các vị sao? Vì ta luôn đặt nhân dân lên trước? Đó chẳng phải chính là lời dạy của vị vua đời trước sao, là phải lấy dân làm gốc, dân chính là đất nước?”

Vua An Dương Vương tiếp tục quay sang Triệu Đà hỏi:

“Triệu Đà này, ngài nghĩ sao về đất nước Âu Lạc này?”

Triệu Đà lập tức quỳ xuống cúi đầu tâu:

“Dạ bẩm! Tôi thấy… Nhân dân ở đây rất bác ái, giàu tình thương, không phân biệt đối xử và luôn mang lại cho người ta một cảm giác rất thoải mái.”

“Phải! Đúng vậy! Các vị hãy thử nghĩ mà xem, nếu chúng ta phân biệt các dòng tộc với nhau, liệu có Âu Lạc như bây giờ? Nếu các vị nói tới việc xâm chiếm lãnh thổ, thì chẳng phải dân tộc Âu Việt của chúng ta cũng định đánh chiếm nhưng nhờ vua Hùng tới đề nghị nên trận chiến mới không nổ ra hay sao? Tại sao chúng ta lại phải quan trọng nguồn gốc của một người lãnh đạo đến vậy?”

Thấy mọi người dường như đã có vẻ chấp thuận ý kiến, vua An Dương Vương tuyên bố sẽ làm lễ truyền ngôi cho Triệu Đà và kết thúc cuộc họp.

Tuy mọi người đều không còn ai phản đối với quyết định của vua An Dương Vương, nhưng Cao Lỗ trong lòng vẫn còn hậm hực vô cùng. Vua An Dương Vương cũng nhận ra điều đó nên ngay sau khi kết thúc buổi họp, ngài đã Chủ động rủ Cao Lỗ đi dạo.

“Cao Lỗ, anh đi dạo cùng em một lát chứ?”

“Được!” Cao Lỗ hậm hực.

Cho tới khi hai người đã đi khuất khỏi chỗ đông người, vua An Dương Vương mới nói:

“Em hôm qua có một giấc mơ”

Cao Lỗ bắt đầu chăm chú.

“Ở đó, Chủ rùa từng cho em ý tưởng để xây thành hóa thành một ông lão cường tráng, cao hơn một trượng. Ngài ấy nói ngài là Kinh Dương Vương, cha của ngài Lạc Long Quân, vị long tổ mà các vị vua Hùng thờ phụng. Chắc là anh cũng biết vị Lạc Long Quân này nhỉ?” Vua An Dương Vương liếc sang nhìn Cao Lỗ.

Cao Lỗ vội lúng túng chối:

“Lạc Long Quân? Là… Là vị nào? Sao tau biết được?”

“Thôi được rồi, em cũng không trách anh đâu. Ngài Kinh Dương Vương đã nói cho em rồi. Rằng khi em thực hiện nghi lễ kế thừa ngôi vua của vua Hùng, anh cũng đã có mặt. Và do anh đứng ở một mắt xích của trận pháp, vậy nên tác dụng của trận pháp không trọn vẹn, dẫn tới việc thời kỳ của em đến đây… Là phải kết thúc rồi” Vua An Dương Vương tay nắm chặt, kìm lại cảm giác cay đắng và nghẹn ngào “Dù… Dù rằng chỉ khoảng chục năm nữa… Là em có thể… Có thể vĩ đại bằng cha rồi…”

“Tau… Tau… Xin lỗi…”

“Em bảo rồi, em không trách anh đâu. Có vẻ như cả ngài Lạc Long Quân và vị vua Hùng thứ mười tám cũng biết lúc anh có mặt rồi, nhưng họ không can thiệp vì mọi chuyện xảy ra đều có lý do của nó. Em cũng tin Triệu Đà có thể đưa đất nước của chúng ta phát triển mạnh mẽ hơn nữa! Em cảm thấy vậy!”

“Làm sao mà mi có thể chắc điều đó được?”

“Bởi vì, cả em và anh, chúng ta đều quá chấp niệm việc làm vua. Anh cũng vậy mà phải không?”

“Tau… Tau…”

“Triệu Đà thì khác, hắn là tướng, làm tướng cả một đời rồi. Hắn là người sẽ tuân thủ những yêu cầu được đi ra, và nghiêm khắc tuân theo yêu cầu đó. Hắn sẽ không vì cái vị thế của bản thân mà gạt đi yêu cầu em đưa ra cho hắn”

“Cũng đúng…”

“Hà…” Vua An Dương Vương thở dài một tiếng, hai tay đặt sau lưng nhìn về phía hồ, nói “Anh còn nhớ lời vua Hùng nhắc chúng ta không. Là chúng ta phải gạt bỏ đi chấp niệm của mình. Em nghĩ, đây là thời điểm chúng ta nên làm vậy”

Cao Lỗ nghe vậy, chẳng thể nói được gì nữa, chỉ đành gật đầu chấp thuận. Tuy vậy, ông vẫn cảm thấy việc vua An Dương Vương truyền ngôi cho một kẻ tới xâm lược vẫn là một điều gì đó khó có thể chấp nhận, và có thể sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng sau này, và với một kẻ muốn được nổi danh như Cao Lỗ, em trai mình bị vậy thật không dễ chịu chút nào. Vậy nên ông đã đi kháo khắp thành, rằng có một người phụ nữ đã tiết lộ bí mật về nỏ Liên Châu cho Triệu Đà, vậy nên Triệu Đà bắt thóp được, khiến vua An Dương Vương phải chấp nhận đầu hàng. Mọi người cứ thế mà đồn tai nhau, cuối cùng, từ người một người con gái làm lộ bí mật về nỏ Liên Châu, đã thành Mị Châu, tức một người con gái đẹp tiết lộ về Liên Châu, để lộ bí mật. Và thương thay, Mị Châu lại chính là một trong ba người con gái của vua An Dương Vương. Tự dưng nàng lại phải mang tai tiếng như vậy, thật sự là đau lòng. Nhưng đó là câu chuyện của tương lai hậu thế sau này, giờ chúng ta hãy cùng quay trở lại thời điểm khi vua An Dương Vương truyền ngôi cho Triệu Đà.

Khi vua An Dương Vương truyền ngôi cho Triệu Đà, ngài dặn dò Đà đúng một câu:

“Nay, ta truyền lại ngôi vua cho ngươi, mong ngươi, hãy đặt đất nước lên làm đầu, đặt hạnh phúc và hòa bình của nhân dân lên trước hết. Ngươi có làm được không?”

“Triệu Đà xin nhận sự ủy thác của ngài An Dương Vương” Triệu Đà lập tức quỳ gối cúi đầu.

Buổi truyền ngôi kết thúc, vua An Dương Vương cũng tạm biệt kinh đô, cùng năm người vợ và ba người con gái trở về quê nhà mà qua đời tại đó, kết thúc hơn năm mươi năm trị vì, hơn năm mươi năm quốc thái dân an. Về phần Cao Lỗ, ông vẫn nhất quyết không muốn làm việc dưới trướng vị vua mới, vậy nên đã xin cáo lui về ở ẩn tại khu vực Cửa Hiến rồi sinh sống ở đó cho đến cuối đời mình.

Năm 196 TCN, sau khi bình định phương Bắc rộng lớn, Hán Cao Đế đa sai Lục Giả sang phong cho Đà làm Nam Việt Vương, hắn học theo cách chia đế và vương của Tần Thủy Hoàng, ngụ ý muốn nói nước Nam Việt, vẫn… kém nhà Hán một bậc.

Lúc ấy, mọi người đều kịch liệt phản đối.

“Đám người phương Bắc đó là cái quái gì chứ?”

“Chúng ta là một nước mà còn cần chúng phong cho ư?”

“Tên sứ giả vừa rồi trông thật quá khệnh khạng rồi!”

“Nam Việt Vũ Vương, ngài hãy lên tiếng đi! Đến cả Chủ “Vũ” trong tên của ngài chúng còn dám bỏ. Ngài mà nhận thì khác nào tự nhận mình yếu đuối, nhu nhược đâu!”

“Phải đó! Một đám bại trận! Chúng có đánh được chúng ta đâu mà đòi phong vương!”

Triệu Đà giơ tay ra hiệu, mọi người đều lập tức im lặng. Ngồi trên ngai vàng, Triệu Đà nói:

“Không, họ quả thực có thể xâm lược chúng ta”

“Này! Ta chịu cam tâm phục tùng ngươi chỉ bởi vì ngài An Dương Vương tin tưởng ngươi thôi đấy! Cái bộ dạng hèn nhát đó mà xứng đáng với sự tin tưởng của ngài ấy sao?” Mán Chủ chém rựa xuống bàn, đứng lên phát tiết.

“Ấy! Từ từ, bình tĩnh! Ngài đang xúc phạm vua đó!” Tiếng những bộ Chủ khác khuyên can.

“Không sao, ngài ấy tức giận cũng đúng thôi. Hẳn các vị cũng cảm thấy bất mãn mà phải không?” Triệu Đà cất tiếng hỏi.

Cả căn phòng mọi người đều cúi rụp đầu xuống không dám trả lời.

“Lần trước ta mang tới năm mươi vạn quân nhưng không thành, lúc ấy lại đang loạn lạc nữa. Vậy mọi người nghĩ lần này bọn chúng sẽ mang tới bao nhiêu nếu muốn tấn công? Một trăm vạn? Hai trăm vạn? Hay năm trăm vạn?”

Triệu Đà ngừng đôi chút, vuốt cằm rồi nói tiếp:

“Rồi nếu không được, chúng lại tiếp tục cử thêm nữa, chiến tranh tiếp tục kéo dài, như vậy dân chúng phải sống làm sao?”

Mọi người đều im lặng không biết trả lời như nào. Mán Chủ mới lớn tiếng đáp:

“Nhưng cái việc chấp nhận để chúng phong vương thì được cái gì chứ? Nếu chúng muốn, chúng vẫn sẽ đánh luôn thôi!”

Mọi người trong điện đều nhìn nhau, gật đầu đồng ý.

“Tại sao chúng phong vương cho ta? Đúng như mọi người nghĩ, chúng hiện đang không muốn đánh. Họ chỉ đang muốn lợi ích của chúng ta thôi. Nhưng… Điều đó không có nghĩa là họ không thể đánh.” Triệu Đà chậm chạp đứng dậy, hai tay chắp sau hông, nói tiếp:

“Ta là người phương Bắc. Ta vốn rất hiểu lối suy nghĩ của họ. Họ sẽ luôn ưu tiên lợi ích cho mình trước hết. Vậy nên, miễn là chúng ta vẫn còn cho họ ăn, thì họ sẽ không dại gì mà động vào chúng ta cả.”

Triệu Đà bước xuống, vỗ vai Mán Chủ, nở nụ cười hài lòng, nói:

“Ngài nghĩ cho ta, nghĩ cho nước, vậy là điều rất đáng mừng. Nhưng, chúng ta cần cái vị trí thấp kém này. Ngài biết không, trước kia, bọn ta luôn coi phương Nam là một vùng đất gồm các bộ lạc, những kẻ man di mọi rợ dễ dàng bị chinh phục. Vậy nên mới có chuyện bọn ta sẵn sàng kéo quân xuống đây. Nhưng giờ, nếu chúng đã công nhận chúng ta là một nước, thì cuộc chiến không còn là chiến tranh giành lãnh thổ nữa, mà sẽ là cuộc chiến giữa hai đất nước. Như vậy, lý do chiến đấu của chúng càng ít, còn lý do của ta lại càng nhiều hơn. Vả lại, công lao dựng nước của các vị vua đời trước sẽ được công nhận”

Mọi người đều gật đầu tán thành.

Kết thúc cuộc họp, Triệu Đà phủi áo ra về, đi ngoài đường vẫn còn thong dong hiên ngang, vô cùng tự tại. Nhưng ngay khi vừa về tới phòng, ông ta đã lập tức cầm lấy thanh đao nặng hơn sáu cân, chém điên cuồng tới nát vụn tảng đá khổng lồ cao hơn năm mươi thước. Vừa chém, ông vừa không ngừng chửi thề:

“Khốn nạn! Quân khốn nạn! Đám khốn nạn đó! Bọn chúng thì ra vẻ cái gì chứ? Một đám hèn nhát! Một đám chỉ chăm chăm lợi ích!”

Giữa lúc ấy, một nam tử với bộ y phục kỳ lạ chưa từng thấy bao giờ nhảy xuống từ không trung. Cậu ta nói:

“Chào ngài, con là Trần Đạo Tâm, một người đến từ tương lai”

Triệu Đà lập tức cắm thanh đao xuống đất, thở hắt một tiếng, khuôn mặt ông lại trở lại vẻ điềm tĩnh thường ngày:

“Tương Lai? Là vùng đất nào? Mà đây không phải là nơi mà một tên trẻ tuổi như cậu có thể vào được đâu. Hãy mau nói lý do đi, nếu không ta sẽ trừng trị cậu vì tội lẻn vào đây đấy” Triệu Đà cau mày đe dọa.

Nam tử vội xua tay:

“Ngài bình tĩnh! Bình tĩnh! Nghe con giải thích đã! Tương lai không phải một vùng đất. Để giải thích đơn giản thì như này. Ví dụ ngày mai sẽ có một đứa trẻ tên A Khấu sinh ra chẳng hạn, thì đứa trẻ đó không thể xuất hiện vào hôm nay đúng không ạ?”

Triệu Đà im lặng gật đầu.

“Vậy nên nếu đứa trẻ tên A Khấu đó xuất hiện ở đây vào hôm nay, hẳn là sẽ rất vô lý. Nhưng ở thời điểm con sống, bọn con nhận ra, thời gian cũng giống như một dòng sông. Tức là con có thể ở tương lai, giống như ở vùng hạ nguồn, đi ngược trở về thời điểm ngài sống, giống như đi ngược lại thượng nguồn vậy. Nhưng ngài yên tâm! Con chính là người dân của nước Việt Nam, tên gọi trong tương lai của đất nước Nam Việt này!”

Đến lúc này nét mặt Triệu Đà mới giãn ra, ông ta ngẩng đầu cười lớn, vừa cười vừa vỗ vai Đạo Tâm, nói:

“Ha ha ha! Đúng là không thể tưởng mà! Người Nam Việt sau này còn có thể có phép thuật để di chuyển trong thời gian nữa, thực sự quá giỏi mà! Ha ha ha!”

“Dạ… Thực ra cái đó gọi là khoa học… Cơ mà nó là một định nghĩa dài dòng khác nữa, nên cứ coi là pháp thuật cũng được ạ” Tâm gãi đầu gãi tai.

“Thế cậu đến đây làm gì nào?”

“Con… Con đang đi tìm học hỏi các cha ông đời trước, và con thắc mắc tại sao ngài lại chịu quy thuận nhà Tây Hán? Bởi… Bởi… Trong tương lai, ngài sẽ… mang tiếng xấu… Rất nhiều người dân Việt Nam sẽ coi ngài quân cướp nước và dâng đất nước cho đất nước ở phương Bắc. Nhưng rõ ràng! Con thấy mấy ngày nay ngài đều rất vì dân và không hề muốn nước ta bị phụ thuộc vào chúng”

Nụ cười trên môi Triệu Đà tắt ngấm. Ông ta ngồi bịch xuống đất, hai tay chống đùi, thở dài một hơi rồi nói:

“Ta muốn thì quan trọng gì chứ… Cậu bé, cậu hãy nói xem Việt Nam sau này sẽ như nào xem”

“Dạ, Việt Nam trở thành quốc gia có mối quan hệ hữu nghị tốt với nhiều nước trên thế giới. Đời sống của mọi người đều rất tốt, muốn gì cũng có, đồ ăn đa dạng, nhiều thứ để tiêu khiển, cũng rất yên bình, không có chiến tranh.”

‘Vậy là tốt mà phải không?”

“Nhưng trước đó… Việt Nam đã bị phương Bắc đô hộ tới hơn một nghìn năm! Sau đó lại tiếp tục bị những nước khác nữa tới xâm lược. Và trên hết là rất nhiều thứ văn hóa của nước ta bị phương Bắc nhận là của mình! Con thậm chí còn chẳng biết tin vào nguồn thông tin nào nữa! Và rất nhiều người đổ việc đó lên đầu ngài đó ạ! Chẳng phải là giờ sức mạnh quân đội của chúng ta cũng có thể đấu một mất một còn với chúng, để chúng sợ một phen sao?”

Triệu Đà nhếch mép cười, có chút đau khổ vương trên khuôn mặt ông. Ông nói:

“Trong tương lai, con có biết những cái tên A Lương, Cẩu Thặng, A Cái, Trương Tiền, Thi Lau không?”

“Họ… Là ai ạ?”

“Họ là người Âu Lạc đã chết trong trận chiến mà tên Đồ Thư đem quân sang xâm lược đó. Ta cũng không biết đâu, cho đến khi hỏi thăm người dân ở đây về những ngôi mộ ngoài kia”

“Con… Chưa hiểu ý ngài lắm”

“Con thấy không. Có những con người ở đất nước này, họ sẵn sàng lao vào chiến đấu bảo vệ tổ quốc, mà không cần nhận lại gì cả, đến tên tuổi và công lao của họ cũng chẳng ai nhớ đến.”

“Dạ phải… Những cuộc chiến sau này cũng có rất nhiều người đã hy sinh anh dũng mà không được biết tới”

“Ha ha. Đúng vậy mà phải không?” Triệu Đà cười, một nụ cười phảng phất sự cay đắng, ông nói tiếp:

“So với họ, ta chỉ bị mang tiếng xấu thì có là gì? Người đời sau oán trách ta thì có là gì? Ta vẫn còn được sống, được ăn, được uống trên mảnh đất mà những người trước đã hy sinh. Thì ta còn đòi hỏi gì nữa chứ?”

Triệu Đà khẽ đứng dậy, ra hiệu cho Tâm đi theo mình. Vừa đi vừa nói:

“Cậu có biết thứ gì tượng trưng cho dân tộc chúng ta không?”

“Là tre ạ?”

“Tre á? Ha ha! Có vẻ sau này mọi người ví như vậy nhỉ. Cũng hay, cũng hay!”

“Vậy ngài nói là gì ạ?”

Triệu Đà dừng lại bên một hòn non bộ, khẽ ngồi xuống đưa tay vào trong làn nước nói:

“Là nước đó”

“Nước ý ạ?”

“Phải! Là nước. Tổ tiên của dân Nam Việt là ngài Lạc Long Quân, giống rồng nước. Chúng ta sống ven biển, lấy nước làm gốc rễ của mọi sinh hoạt. Chẳng phải là nước thì là gì?”

“Dạ… Vâng…”

“Chắc cậu chưa hiểu ý ta lắm nhỉ. Cậu nghĩ nước là vật như nào?”

“Linh hoạt và không có hình dạng nhất định ạ?”

“Cũng đúng. Cậu biết không, mỗi đời vua khi lên ngôi, sẽ cần ngẫm cho mình một bài học về nước. Đối với ngài An Dương Vương, nước chính là nguồn sống. Nước mang tới sự sống cho vạn vật mà không giữ lại gì cho bản thân, vậy nên ngài ấy luôn sống như vậy, như một dòng nước mát mang lợi ích tới cho nhân dân và những người xung quanh.”

“Còn ngài thì sao?”

“Ta sao? Đối với ta… Là việc cúi đầu. Giống như nước, luôn lắng xuống phía dưới, chảy xuống vùng thấp, không tranh với đời, không tranh với người.”

“Nhưng nếu không tranh thì họ sẽ càng lúc càng chiếm đoạt nhiều của chúng ta”

“Ha ha. Nhưng cậu bé, cậu có thấy nước bao giờ cạn không?”

“...”

“Nước vô tận và mênh mông. Dù ai lấy cũng được, ai dùng cũng được. Nhưng nó sẽ không hết.”

“Nhưng…”

“Ta hiểu ý cậu. Nhưng việc cứ để họ lấy không có nghĩa là chúng ta nhu nhược. Cậu có thể lấy mỗi ngày một chút nước, nhưng nếu cậu định lấy hết nước, nước nặng sẽ nhấn chìm cậu. Lửa dù có cháy dữ dội cũng sẽ bị nước dập tắt. Mỗi người dân Nam Việt giống như một giọt nước vậy. Một mình họ sẽ rất yếu, nhưng một giọt tiếp một giọt, một dòng tiếp một dòng, tạo thành sông, thành biển. Hết người này tới người khác đứng lên chống lại giặc, thì làm gì có chuyện giặc có thể đánh bại chúng ta chứ!” Triệu Đà đứng bật dậy, vẻ mặt vô cùng khí thế.

“Vậy là ngài định đứng lên vùng dậy sao?” Vẻ mặt Tâm vui mừng.

“À không. Đó là chuyện của sau này. Ta tin là người dân Nam Việt sau này, đến khi cần sẽ đứng lên chống lại được giặc ngoại xâm mà không cần ta. Chẳng phải cậu chính là minh chứng rõ ràng nhất cho việc đó sao?”

“...”

“Còn ta, việc của ta là tiếp tục nhẫn nhịn, tiếp tục nhún nhường, miễn là chúng không đi quá giới hạn, để dân chúng được hạnh phúc không phải gặp chiến tranh là được rồi.”

“Ngài… Dạy phải…”

“Thôi được rồi. Chắc cậu cũng phần nào giải tỏa trăn trở rồi chứ? Cứ trở về suy nghĩ thêm đi, câu chuyện của chúng ta hôm nay, cậu có nói cũng chẳng ai tin đâu. Ha ha ha! Thôi, về đi cậu bé! Nói chuyện với cậu cũng làm ta sảng khoái hơn nhiều rồi. Cám ơn cậu!” Nói rồi Triệu Đà quay lưng bỏ vào phòng.

Trần Đạo Tâm cũng cúi bái chào vị vua tai tiếng ấy rồi mất hút trong không trung.

Triệu Đà nhún nhường là thế, nhẫn nhịn là thế, vậy mà đến thời Cao Hậu, quan đương sự ở phương Bắc lại xin cấm không cho người Nam Việt vào mua đồ sắt. Triệu Đà khi đó mới phẫn nộ, tự xưng là Nam Việt Vũ Đế, đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa, đánh bại mấy huyện rồi rời đi. Cao Hậu lúc đó tuy có sai tướng quân Lâm Hi Hầu tên là Táo đến đánh nhưng cũng không đấu lại nổi quân Nam Việt nên đành bãi binh. Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới,  đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn dặm. Đà bèn đi xe mui lụa mầu vàng cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “chế”, chẳng kém gì Trung Quốc. Nhưng Đà cũng biết người biết ta, biết chỉ nên đánh tới đó mà dừng, đánh hơn sẽ gây hại cho dân nên thôi.

Cho tới thời Hiệu Văn Đế, đất nước phương Bắc lại trở nên hùng mạnh hơn, nhưng chúng cũng biết chẳng làm gì được Triệu Đà, mới đành phải dùng chiêu lạt mềm buộc chặt, cho đặt người giữ ấp để hàng năm đến ngày giỗ thờ cúng mồ mả bậc phụ mẫu của Triệu Đà, đối với anh em họ hàng của ông cũng được ban ơn và cho làm quan to. Ý của Hiệu Văn Đế chính là, tôi đã tốt với ông, thì mong ông hãy tốt lại với tôi, đừng để tôi phải gây chiến và sát hại người thân của ông, người thân của ông đang bị tôi nắm hết rồi.

Triệu Đà coi thường, ném thêm cho phương Bắc chút cống vật gọi là bố thí thêm. Ngoài mặt thì vẫn xưng “vương” nhưng trong nước thì vẫn xưng “đế” như xưa, Hiệu Văn Đế tuy biết, cũng tức lắm, mà chẳng làm được gì. Đà ta đâu có xưng “đế” khi xưng hô với Hiệu Văn Đế đâu? Còn việc Đà xưng “đế” trong nước thì là người ta đồn nhau, kiếm đâu ra bằng chứng?

Vậy là thời đại của nhà họ Triệu, dùng cách cứng mềm kết hợp, cũng tồn tại được tới tận năm đời, giàu có vô cùng tận. Thậm chí, sự kiêu hùng của Triệu Đà còn được thể hiện rõ nét qua cuốn sách Truy nguồn sự bất tử trong đó so sánh lăng mộ của Triệu Văn Vương - Triệu Mật, tức người cháu trai của vua Triệu Đà. Bên trong mộ của Triệu Mật là hơn 10.000 di tích văn hóa như bình đồng, đồ gốm, đồ sơn mài… Kho báu ngọc bích khổng lồ, những thanh kiếm khảm vàng, bộ chuông đồng nhiều không đếm xuể. Lăng mộ của Triệu Văn Vương được bài trí rất công phu. Thi thể vị vua nằm trong bộ áo tang ngọc y dài tới gần mét, được làm từ hai ngàn hai trăm chín mươi mốt miếng ngọc bích, chỉ lụa và vải lanh. Điều này chứng tỏ rằng đã từng có một mối quan hệ bang giao vô cùng phức tạp giữa 2 đất nước, với sự đa dạng những hình thức phô trương quyền lực ở cả 2 phía nhằm duy trì địa giới hiện tại của họ.

Chỉ tiếc là sau chín mươi bảy năm trị vì, tương đương với năm đời vua, nhà Triệu đã bị mất nước vào tay nhà Hán. Tuy vậy, công lao và sự vĩ đại của Triệu Đà không hề bị phủ nhận như ngài từng nghĩ, rất nhiều vị anh hùng dân tộc tỏ lòng thành kính rất lớn đối với Triệu Đà. Ví dụ như:

“Từ Kinh Dương Vương cho đến Triệu Vũ Đế

Tương truyền chính thống, vua bậc Thánh hiền

Dân là hưng khởi, dân yên nước thịnh…”, trích trong bài hịch của Hai Bà Trưng.

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập - Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương”, trích trong “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.

“Sở, Tần hai nước cường bạo theo nhau diệt vong

Ông cứ ung dung nhũn nhặn làm bá Chủ phương nam

Tùy thích có thể xưng hoàng đế

Vui điều thiện chịu khuất với Chủ nhà nho hèn mọn

Đài cao trăm thước ở Lĩnh Biểu đã nghiêng đổ

Ngôi mộ cổ nghìn năm ở Phiên Ngung đã mất

Thương cho đời này theo đời kia thay đổi nhau

Nhưng không bằng ông lão Man Di” - bài thơ “Triệu Vũ Đế cố cảnh” của Nguyễn Du.

“Triệu Đà là vị hiền quân,

Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.”, trích trong “Lịch sử nước ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Bác Hồ kính yêu.

Như vậy, tuy rằng Triệu Đà là người phương Bắc, nhưng ngài vẫn có công lao rất lớn đối với đất nước Việt Nam ta. Còn việc, ngài có xứng đáng là một vị vua hay không? Có lẽ, mỗi người trong chúng ta có một câu trả lời khác nhau.

huyền sử truyền thuyết huyền huyễn cổ tích
Còn lại: 5